Thứ Tư, 27 tháng 8, 2014

SỬ DỤNG ANIPIRIN TRONG ĐẠI DỊCH PRRS/ ANIPIRIN in PRRS outbreak

SỬ DỤNG ANIPIRIN TRONG ĐẠI DỊCH PRRS
Sốt - Cơ chế và đặc điểm Sốt là trạng thái tăng thân nhiệt trên mức bình thường của cơ thể do trung tâm điều hòa nhiệt bị rối loạn bởi các tác nhân gây bệnh. Sốt có thể được gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau như do nhiễm khuẩn (vi khuẩn, virus, ký sinh trùng...) hay do các tác nhân khác như protid lạ, muối, thuốc, thần kinh...
Khi cơ thể bị xâm nhập bởi vật lạ (virus hay vi khuẩn), chúng sẽ tiết ra các độc tố. Theo phản ứng tự nhiên, cơ thể sẽ sản xuất ra các hóa chất để chống lại vật lạ này, từ đó tạo nên phản ứng sốt. Do đó, sốt là phản ứng đầu tiên hoạt hóa quá trình miễn dịch của cơ thể nhằm cố gắng để trung hòa một vi khuẩn hoặc virus lây nhiễm.


Sơ đồ cơ chế gây sốt



Khi cơ thể bị nhiễm khuẩn, hệ miễn dịch thông báo về trung tâm điều nhiệt ở não và tuyến dưới đồi, tuyến dưới đồi sẽ kích thích tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận kích thích các cơ quan, các cơ bắp tăng cường vận động làm tăng hoạt động trao đổi chất trong cơ thể làm tăng thân nhiệt. Đồng thời trung tâm cũng kích thích hệ thần kinh giao cảm tiết acetyl cholin gây ức chế tuyến mồ hôi, từ đó làm cơ thể giảm thải nhiệt. Khi lượng nhiệt sinh ra lớn hơn lượng nhiệt thải ra thì thân nhiệt tăng (sốt).

Sốt là một phản ứng bảo vệ cơ thể vì khi sốt làm tăng số lượng bạch cầu, tăng khả năng thực bào của bạch cầu, tăng sinh kháng thể và bổ thể, tăng chuyển hóa năng lượng ở gan, tăng cường hàng rào bảo vệ của gan, tăng tổng hợp đạm, tổng hợp urê…


Nhiệt độ cao do sốt còn có tác dụng ức chế sự sinh sản của một số virus (cúm, bại liệt). Sốt làm tăng nội tiết tố có tác dụng chống viêm và chống dị ứng, tăng khả năng phân hủy vi khuẩn, tăng các chức năng sinh lý…


Tuy nhiên, nếu sốt cao và kéo dài hoặc sốt ở những cơ thể suy yếu sẽ dẫn đến các tác hại nghiêm trọng như rối loạn chuyển hóa, rối loạn các chức năng của các cơ quan, cạn kiệt dự trữ, gây nhiều hậu quả xấu như suy kiệt, nhiễm độc thần kinh, suy tim và co giật. Điều xấu nhất có thể xảy ra là tử vong. Như vậy, sốt cần được theo dõi chặt chẽ và khi cần, phải được can thiệp bằng thuốc.


PRRS và sốt cao


Bệnh tai xanh hiện đang nổ ra thành đại dịch và lan tràn trên khắp cả nước gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi heo nước ta, đặc biệt gây tổn thất nặng nề cho người chăn nuôi. Bệnh xảy ra nhanh với biểu hiện heo sốt cao, bỏ ăn lan rộng trên toàn đàn và chết đột ngột sau 1-2 ngày.


Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở heo (Porcine Reproductive and Respiratory Syndrome) là một bệnh do virus gây ra, gây thiệt hại lớn về kinh tế và được phát hiện tại Mỹ vào năm 1987. Vào thời điểm đó, phân lập được virus nhưng không có độc tính và do chưa xác định được tên bệnh nên gọi là "bệnh bí hiểm" hay bệnh "Tai xanh". Năm 1992, Tổ chức thú Y thế giới thống nhất tên gọi của bệnh là "Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp trên heo".


Ở Việt Nam, bệnh được phát hiện vào năm 1997 trên đàn heo nhập từ Mỹ. Nhưng đến năm 2007, bệnh lần đầu tiên nổ ra thành dịch ở tỉnh Hải Dương và từ đó đến nay liên tục xảy ra làm chết hàng trăm ngàn con heo, gây tổn thất hàng tỉ đồng.


Bệnh tai xanh do virus Nidovirales, họ Arteviridae gây ra. PRRS virus thuộc nhóm RNA virus (RNA mạch đơn) có 2 typ chính: typ I gồm các virus Châu Âu và typ 2 gồm các virus Bắc Mỹ.


Cơ chế gây bệnh: virus PRRS tấn công hệ thống đại thực bào (đặc biệt đại thực bào ở phổi), phá hủy và giết chết đại thực bào (40%) làm suy giảm hệ miễn dịch của heo, tạo cơ hội cho các bệnh truyền nhiễm như: Dịch tả, Tụ huyết trùng, Đóng dấu, Phó thương hàn, Suyễn, Liên cầu khuẩn... kế phát. Các bệnh kế phát là nguyên nhân chủ yếu gây chết ở những heo mắc tai xanh.


Heo mắc bệnh thường có các biểu hiện: Sốt 40-410C, bỏ ăn, ủ rũ mệt mỏi, ho, khó thở, da ban đỏ chuyển dần sang tím tái, một số heo có biểu hiện xanh tím ở tai. Heo nái thường sẩy thai vào giai đoạn cuối, thai chết lưu, phối giống khó thụ thai, vô sinh... Heo con sinh ra bị yếu, ho 1 ngày tuổi (đây là dấu hiệu đặc trưng). Heo đực giống mệt mỏi, giảm tính hăng, số lượng và chất lượng tinh dịch giảm. Heo con theo mẹ sốt, ho, tiêu chảy và chết hàng loạt v.v...


Heo bị nhiễm PRRS chết chủ yếu không phải vì PRRS mà nguyên nhân chính là phụ nhiễm các vi khuẩn kế phát và sốt là triệu chứng điển hình. Ở heo, sốt thường gây hậu quả rất nghiêm trọng và có thể chết nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời. Sốc nhiệt trên heo gây ảnh hưởng nghiêm trọng vì khả năng thải nhiệt của heo kém do những nguyên nhân sau: heo có thể tích phổi nhỏ hơn so với trọng lượng cơ thể, tuyến mồ hôi kém phát triển và lớp mỡ dưới da dày. Do đó, biện pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại do PRRS là dùng thuốc hạ sốt nhanh chóng, an toàn và hiệu quả, tăng sức đề kháng cho đàn heo đồng thời dùng kháng sinh phổ rộng để ngừa phụ nhiễm.


Anipirin – kiểm soát sốt hiệu quả


Để giúp giảm thiểu thiệt hại do sốc nhiệt, đặc biệt cho các trại nhiễm PRRS, công ty CTCBIO Inc., - Hàn Quốc đã nghiên cứu và phát triển sản phẩm Anipirin với thành phần là aspirin đậm đặc, vitamin C và glucose dùng trộn vào thức ăn. 

Tác dụng của Aspirin


Tác dụng hạ sốt: aspirin ức chế prostaglandin synthetase làm giảm tổng hợp PG E1, E2 từ đó ức chế quá trình sinh nhiệt, tăng cường quá trình thải nhiệt và lặp lại cân bằng cho trung tâm điều nhiệt.


Tác dụng giảm đau: aspirin giúp giảm đau thông qua cơ chế làm giảm tổng hợp PGF2, giảm tính cảm thụ của dây thần kinh cảm giác với các chất gây đau như: serotonin, brandykinin.


Tác dụng chống viêm: ức chế enzyme cyclooxygenase, ngăn cản sự tổng hợp prostaglandin, là chất trung gian hóa học gây viêm, do đó làm giảm quá trình viêm.


Ngoài ra, aspirin còn đối kháng với hệ enzyme phân hủy protein, ngăn cản quá trình biến đổi protein làm bền vững màng lysosom và đối kháng tác dụng các chất trung gian hóa học như bradykinin, histamin, serotonin, ức chế hóa hướng động bạch cầu, ức chế sự di chuyển của bạch cầu tới ổ viêm.


Tác dụng của vitamin C


Vitamin C tham gia tạo collagen - một protein rất quan trọng trong việc liên kết các cấu trúc cơ thể với nhau (mô liên kết, sụn khớp, dây chằng...).



Vitamin C tăng cường hệ thống miễn dịch bằng cách tăng cường chức năng và hoạt động của các bạch cầu, tăng nồng độ và đáp ứng kháng thể.


Trong quá trình stress, vitamin C bị gia tăng bài tiết đáng kể qua đường tiết niệu nên làm tăng nhu cầu vitamin C.


Vitamin C chống oxy hóa bằng cách trung hòa các gốc tự do sản sinh ra từ phản ứng chuyển hóa giúp bảo vệ tính toàn vẹn của màng tế bào.


Với các tính năng đã nêu như trên, Aspirin có tác dụng giảm đau, hạ sốt, kháng viêm một cách nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Khi kết hợp với vitamin C có khả năng tăng sức đề kháng và phòng ngừa stress đồng thời glucose sẽ cung cấp thêm năng lượng cho heo. Do đó, sản phẩm Anipirin là sự lựa chọn hợp lý và đúng đắn cho trại đang trong vùng nguy cơ bị dịch PRRS. Anipirin làm giảm tỉ lệ chết do sốt trong bệnh PRRS đến 50%. Ngoài ra, Anipirin có thể trộn vào thức ăn cho heo ăn trong 2-3 ngày sau khi tiêm vaccine, hoặc trộn cho heo ăn vào giai đoạn thời tiết giao mùa hay khi chuyển chuồng giúp chống stress và tăng sức đề kháng cho đàn heo.


Sử dụng Anipirin - bảo vệ đàn heo, giảm thiểu thiệt hại trong đại dịch PRRS.











 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét