KIỂM SOÁT TIÊU CHẢY TRÊN HEO CON SAU CAI SỮA BẰNG CHẾ PHẨM KẼM VI BỌC SHIELD ZN
Trên heo, các rối loạn tiêu hóa thường xảy ra ở thời kỳ sau cai sữa. Nguyên nhân chính là do hệ thống enzym tuyến tụy của heo con chưa được phát triển đầy đủ, kết hợp với sự giảm lượng ăn vào do chuyển đổi đột ngột từ sữa mẹ sang dạng thức ăn hỗn hợp
Cai sữa gây stress trên heo con, làm trầm trọng các vấn đề tăng trưởng, sinh lý, dịch bệnh, đặc biệt là tiêu chảy do E.coli. Bệnh này làm gia tăng tỷ lệ tử vong, chi phí điều trị, làm giảm nghiêm trọng tỷ lệ tăng trưởng của heo con trong suốt thời kì cai sữa và cả các giai đoạn phát triển tiếp theo. Để giảm thiểu tình trạng tăng trưởng kém sau cai sữa do tiêu chảy, heo con thường được bổ sung kháng sinh trộn trong thức ăn hoặc kẽm oxit nồng độ cao (2.500 – 3.000 ppm) trong khẩu phần. Tuy nhiên, giải pháp này gây ảnh hưởng trên tính ngon miệng của heo con. Đặc biệt hơn, các nghiên cứu cho thấy sự sụt giảm đáng kể lượng vi sinh vật có lợi trong đường tiêu hóa khi heo con được bổ sung hàm lượng kẽm hoặc đồng vô cơ với liều cao. Ngoài ra, môi trường cũng gánh nhiều hệ lụy từ vấn đề này. Ở Anh, một cuộc khảo sát nhằm đánh giá ô nhiễm kim loại nặng gây ra bởi phân gia súc đã cho thấy rằng lượng kẽm thải ra từ phân vật nuôi là nguồn ô nhiễm chính cho đất
Vậy liệu có giải pháp nào vừa bảo toàn sức khỏe heo con, vừa bảo vệ được môi trường sinh thái?
Một thí nghiệm đã được thực hiện ở Đan Mạch nhằm đánh giá về ảnh hưởng của việc bổ sung 2.500 ppm ZnO và 100 ppm ZnO vào khẩu phần của heo con vừa cai sữa. Kết quả là số lượng các vi khuẩn có lợi như nhóm Lactobacilli bị sụt giảm đáng kể trong khi số lượng cầu khuẩn gây bệnh đường ruột tăng cao trên nhóm heo được bổ sung kẽm liều cao (2.500 ppm) (Hình 1). Một thí nghiệm khác cũng được thực hiện tại Đan Mạch để đánh giá sự ảnh hưởng của việc bổ sung 3.000 ppm ZnO vào khẩu phần của heo con trong 2 và 4 tuần sau khi cai sữa. Trên nhóm những heo con ăn kẽm liên tục trong 4 tuần đã xảy ra một ổ dịch tiêu chảy do E.coli. Riêng nhóm heo con chỉ ăn kẽm trong 2 tuần thì không xảy ra tình trạng này. Kết quả này cho thấy rằng việc bổ sung ZnO với hàm lượng cao trong thời gian dài có thể liên quan đến sự bùng phát dịch tiêu chảy sau khi ngừng sử dụng. Nguyên nhân được dự đoán là do quá nhiều ion Zn++ được đưa vào đường tiêu hóa. Các ion kẽm dư thừa không những ức chế vi khuẩn có hại như E.coli, mà còn ức chế cả vi khuẩn có lợi. Sau khi ngưng sử dụng, hệ vi sinh vật không hồi phục kịp ở trạng thái cân bằng, dẫn đến dịch bệnh bùng phát. Từ các luận điểm này, việc đưa vào lượng ZnO hữu hiệu dưới dạng bào chế đặc biệt sao cho vừa phòng ngừa được tiêu chảy mà vẫn bảo toàn được hệ vi sinh vật đường ruột ở mức tối đa là một đòi hỏi cấp thiết của các chuyên gia công thức thức ăn heo con.
SHIELD ZN - sản phẩm do công ty CTC Bio (Hàn Quốc) đang được công ty CTCBIO Việt Nam phân phối tại thị trường Việt Nam - là dạng kẽm oxit vô cơ vi bọc, chứa 102g ZnO (hay 81g Zn) trong 1kg sản phẩm. Các thử nghiệm được thực hiện tại Mỹ, Úc, Trung Quốc, Hàn Quốc đều cho thấy Shield Zn với lớp vỏ ngoài được vi bọc sẽ giải phóng ZnO hiệu quả hơn trong đường ruột mà không bị thất thoát ở các vị trí khác. Nồng độ 100ppm của ZnO trong Shield Zn vừa có tác dụng ngăn cản sự gắn kết của E.coli lên thành ruột, vừa có tác dụng bảo toàn khả năng hoạt động của các vi khuẩn có lợi, từ đó làm giảm các tác động ngoại ý do sử dụng kẽm oxit liều cao, giúp phòng ngừa hiệu quả bệnh tiêu chảy trên heo con.
- Zn++ có ái lực gắn kết vượt trội đối với thụ thể bám của E.coli/ Salmonella, có tác dụng ngăn cản các vi khuẩn này bám vào thành ruột. Shield Zn cung cấp lượng Zn++ hữu hiệu này.
- Các ion Zn++ dư thừa (ví dụ liều 3.000ppm), sau đó sẽ gắn kết với cả nhóm vi khuẩn có lợi như Lactobacilli, làm giảm số lượng của nhóm này.
Một thí nghiệm gần đây nhất vào tháng 3 năm 2010 đã được tiến hành ở Úc nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung kẽm oxit hàm lượng thấp (Shield Zn) lên tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy và các chỉ tiêu sản xuất khác (lượng ăn vào, tăng trọng hàng ngày, chỉ số chuyển hóa thức ăn, nồng độ kẽm trong huyết tương cũng như lượng kẽm được thải ra ngoài theo phân). Các kết quả thu được trong thí nghiệm này đã chứng minh rằng so với hàm lượng 3.000 ppm ZnO thì hàm lượng 100 ppm ZnO vi bọc trong Shield Zn giúp ngăn ngừa tốt hơn tình trạng tiêu chảy trên heo sau cai sữa (bao gồm cả heo bị gây nhiễm bởi E.coli độc lực cao cũng như heo không bị gây nhiễm).
Ngoài ra, việc bổ sung 100 ppm ZnO vi bọc cũng cho hệ số chuyển hóa thức ăn tốt hơn so với sử dụng ZnO 3.000 ppm. Sự khác biệt này rất rõ rệt trên nhóm heo gây nhiễm với E.coli (P < 0,1). Như vậy, có thể kết luận rằng ZnO vi bọc sẽ mang lại hiệu quả rất khả quan đối với các hệ thống nuôi heo công nghiệp, nơi luôn luôn có mặt các vi khuẩn gây bệnh. Hơn cả mong đợi, hệ số chuyển hóa thức ăn dược cải thiện đáng kể trên nhóm bị gây nhiễm.
Từ các dữ liệu thu được từ thí nghiệm này, có thể kết luận rằng sản phẩm Shield Zn làm giảm một cách có ý nghĩa tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy trên heo con sau cai sữa, cải thiện FCR, đồng thời làm giảm tối đa lượng kẽm thải ra ngoài qua phân, là sản phẩm “XANH” thân thiện với môi trường.
Vậy liệu có giải pháp nào vừa bảo toàn sức khỏe heo con, vừa bảo vệ được môi trường sinh thái?
Một thí nghiệm đã được thực hiện ở Đan Mạch nhằm đánh giá về ảnh hưởng của việc bổ sung 2.500 ppm ZnO và 100 ppm ZnO vào khẩu phần của heo con vừa cai sữa. Kết quả là số lượng các vi khuẩn có lợi như nhóm Lactobacilli bị sụt giảm đáng kể trong khi số lượng cầu khuẩn gây bệnh đường ruột tăng cao trên nhóm heo được bổ sung kẽm liều cao (2.500 ppm) (Hình 1). Một thí nghiệm khác cũng được thực hiện tại Đan Mạch để đánh giá sự ảnh hưởng của việc bổ sung 3.000 ppm ZnO vào khẩu phần của heo con trong 2 và 4 tuần sau khi cai sữa. Trên nhóm những heo con ăn kẽm liên tục trong 4 tuần đã xảy ra một ổ dịch tiêu chảy do E.coli. Riêng nhóm heo con chỉ ăn kẽm trong 2 tuần thì không xảy ra tình trạng này. Kết quả này cho thấy rằng việc bổ sung ZnO với hàm lượng cao trong thời gian dài có thể liên quan đến sự bùng phát dịch tiêu chảy sau khi ngừng sử dụng. Nguyên nhân được dự đoán là do quá nhiều ion Zn++ được đưa vào đường tiêu hóa. Các ion kẽm dư thừa không những ức chế vi khuẩn có hại như E.coli, mà còn ức chế cả vi khuẩn có lợi. Sau khi ngưng sử dụng, hệ vi sinh vật không hồi phục kịp ở trạng thái cân bằng, dẫn đến dịch bệnh bùng phát. Từ các luận điểm này, việc đưa vào lượng ZnO hữu hiệu dưới dạng bào chế đặc biệt sao cho vừa phòng ngừa được tiêu chảy mà vẫn bảo toàn được hệ vi sinh vật đường ruột ở mức tối đa là một đòi hỏi cấp thiết của các chuyên gia công thức thức ăn heo con.
SHIELD ZN - sản phẩm do công ty CTC Bio (Hàn Quốc) đang được công ty CTCBIO Việt Nam phân phối tại thị trường Việt Nam - là dạng kẽm oxit vô cơ vi bọc, chứa 102g ZnO (hay 81g Zn) trong 1kg sản phẩm. Các thử nghiệm được thực hiện tại Mỹ, Úc, Trung Quốc, Hàn Quốc đều cho thấy Shield Zn với lớp vỏ ngoài được vi bọc sẽ giải phóng ZnO hiệu quả hơn trong đường ruột mà không bị thất thoát ở các vị trí khác. Nồng độ 100ppm của ZnO trong Shield Zn vừa có tác dụng ngăn cản sự gắn kết của E.coli lên thành ruột, vừa có tác dụng bảo toàn khả năng hoạt động của các vi khuẩn có lợi, từ đó làm giảm các tác động ngoại ý do sử dụng kẽm oxit liều cao, giúp phòng ngừa hiệu quả bệnh tiêu chảy trên heo con.
- Zn++ có ái lực gắn kết vượt trội đối với thụ thể bám của E.coli/ Salmonella, có tác dụng ngăn cản các vi khuẩn này bám vào thành ruột. Shield Zn cung cấp lượng Zn++ hữu hiệu này.
- Các ion Zn++ dư thừa (ví dụ liều 3.000ppm), sau đó sẽ gắn kết với cả nhóm vi khuẩn có lợi như Lactobacilli, làm giảm số lượng của nhóm này.
Một thí nghiệm gần đây nhất vào tháng 3 năm 2010 đã được tiến hành ở Úc nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung kẽm oxit hàm lượng thấp (Shield Zn) lên tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy và các chỉ tiêu sản xuất khác (lượng ăn vào, tăng trọng hàng ngày, chỉ số chuyển hóa thức ăn, nồng độ kẽm trong huyết tương cũng như lượng kẽm được thải ra ngoài theo phân). Các kết quả thu được trong thí nghiệm này đã chứng minh rằng so với hàm lượng 3.000 ppm ZnO thì hàm lượng 100 ppm ZnO vi bọc trong Shield Zn giúp ngăn ngừa tốt hơn tình trạng tiêu chảy trên heo sau cai sữa (bao gồm cả heo bị gây nhiễm bởi E.coli độc lực cao cũng như heo không bị gây nhiễm).
Ngoài ra, việc bổ sung 100 ppm ZnO vi bọc cũng cho hệ số chuyển hóa thức ăn tốt hơn so với sử dụng ZnO 3.000 ppm. Sự khác biệt này rất rõ rệt trên nhóm heo gây nhiễm với E.coli (P < 0,1). Như vậy, có thể kết luận rằng ZnO vi bọc sẽ mang lại hiệu quả rất khả quan đối với các hệ thống nuôi heo công nghiệp, nơi luôn luôn có mặt các vi khuẩn gây bệnh. Hơn cả mong đợi, hệ số chuyển hóa thức ăn dược cải thiện đáng kể trên nhóm bị gây nhiễm.
Từ các dữ liệu thu được từ thí nghiệm này, có thể kết luận rằng sản phẩm Shield Zn làm giảm một cách có ý nghĩa tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy trên heo con sau cai sữa, cải thiện FCR, đồng thời làm giảm tối đa lượng kẽm thải ra ngoài qua phân, là sản phẩm “XANH” thân thiện với môi trường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét