Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

Nâng cao số lượng heo con

Nâng cao số lượng heo con/ Increase number of piglet
Để nâng cao năng lực cạnh tranh có nhiều phương pháp nhưng một trong những cách chủ lực là nâng cao khả năng sinh sản. Dịch bệnh được tận diệt thì việc tiếp theo là phải nâng cao năng suất sinh sản. Hiện nay, chênh lệch số heo con giữa các quốc gia chăn nuôi tiên tiến và phần còn lại là rất lớn, vì vậy cần phải quan tâm nỗ lực cải thiện vấn đề này.
  1. Trọng tâm là nâng cao số heo con đẻ ra
Khi nói tới số heo con ta thường chia làm hai loại tổng số con sinh và số con chọn nuôi. Tổng số con sinh là tất cả số heo con được đẻ ra. Theo đó, heo con khi đẻ ra là bao gồm cả heo con sống và heo con chết. Ở đây, ta trừ số heo con chết, heo yếu, có trọng lượng dưới tiêu chuẩn... sẽ được số con chọn nuôi. Số heo con đẻ ra mà bài viết đề cập tớicó giá trị kinh tế, là số heo con được chọn nuôi.

Bảng 1 tóm tắt các điều kiện quản lý nhằm nâng cao số heo con đẻ ra. Trường hợp nông trại tự cảm thấy phải tăng số heo con đẻ ra thì cần kiểm tra từng mục một và đưa ra phương pháp cải tiến.

 2. Năng lực của heo giống
Việc cải thiện khả năng di truyền của heo giống được tiến hành liên tục. Đặc biệt là cải thiện FCR và tăng trọng ngày. Các trại heo giống phải tuyển chọn các cá thể có ngoại hình đẹp, số con cao. Các trại mua heo giống phải đưa ra yêu cầu, điều kiện cho nơi bán.Cùng một điều kiện nuôi, quản lý nhưng những nơi có heo giống chất lượng thì năng suất sẽ luôn cao hơn.

3. Nâng cao số heo đẻ ở lứa đầu
Chúng ta đều biết rằng heo lứa đầu số lượng con đẻ ra đều ít. Thế nhưng, nái lứa đầu thường chiếm 20% tổng số nái. Nếu số lượng heo con bình quân của nái lứa đầu dưới 10 con thì sẽ ảnh hưởng tới năng suất toàn trại. Đa số các trại có năng suất cao, số heo con bình quân của nái lứa đầu đều đạt trên 11 con.

3.1 Heo hậu bị phải có bảng tên từng cá thể, quản lí theo ngày tuổi. Kiểm tra lên giống kỹ để nắm rõ ngày dự kiến phối.
3.2 Hai tuần trước khi phối cho ăn cám nái nuôi con 2,5~3 kg/ ngày.
3.3 Một tuần trước khi phối, mỗi ngày cho kích thích bằng mùi heo đực (tăng rụng trứng, lên giống rõ ràng).
3.4 Nhập heo hậu bị có khả năng sinh sản cao.
3.5 Giảm tối đa sự cố khi nái hậu bị đẻ, cần phải quản lý đặc biệt.
4. Kỹ thuật phối ảnh hưởng tới số con
Quản lý phối ảnh hưởng tới số con đẻ ra và tỷ lệ đẻ. Đặc biệt thời điểm phối ảnh hưởng rất lớn tới số con đẻ ra. Rất khó đưa ra một tiêu chuẩn thống nhất về thời điểm phối do có  sự khác nhau ở từng cá thể, từng lứa đẻ, ngày lên giống lại sau khi cai sữa. Nhưng chúng ta cần phải đặt ra một tiêu chuẩn cụ thể.

4.1 Kiểm tra lên giống 1 ngày 2 lần (nếu có khả năng thì 12 tiếng kiểm tra một lần)
4.2 Sau khi kiểm tra lên giống cần xác minh heo có chịu đực không
4.3 Sau khi kiểm tra nái chịu đực phải quyết định thời điểm phối lần 1. Lúc này ta dựa vào thời điểm lên giống lại để quyết định. Nếu sau cai sữa nái lên giống lại trong vòng 5 ngày thì sau khi nái chịu đực 12 tiếng ta bắt đầu phối lần 1. Nếu nái lên giống sau 6 ngày thì khi bắt đầu chịu đực ta phối liền.
4.4 Sau khi phối lần 1 xong, 12 tiếng sau ta phối lần thứ 2. Heo hậu bị hoặc heo nghi ngờ chưa đậu nhất định phải dùng đực kiểm tra để xem có phải phối lần thứ 3 không.
4.5 Từ thời điểm bắt đầu chịu đực đến 12 tiếng sau cần kiểm tra trạng thái lên giống. Đánh dấu khi phối và kết thúc lên giống. Sau khi phối xong, cần ghi lên bảng tên.
5. Chênh lệch số con đẻ ra ở từng lứa đẻ
Sự khác biệt năng suất ở từng lứa đẻ là rất rõ ràng. Nái trong vòng đời của mình lứa đầu thường đẻ ít, số con đẻ ra thường lên đến mức cao nhất ở lứa 3, 4, 5. Do đó cần phải duy trì tỷ lệ nái theo từng lứa đẻ phù hợp nhằm duy trì số heo con đẻ ra ổn định.
Tuy nhiên thỉnh thoảng ta thấy số lượng heo con do nái ở lứa có năng suất cao đẻ ra chiếm số lượng nhiều thì đó là do công ty quản lý heo hậu bị đến heo lứa 2 không tốt.

6. Khoảng cách từ đẻ tới phối
Ngày tuổi cai sữa: nếu cai sữa sớm hơn một ngày so với 28 ngày thì do số lứa đẻ của nái trong năm sẽ tăng nên số heo con đẻ ra tăng 0,05 con, nhưng năng suất lứa sau lại giảm 0,1 con. Việc quyết định ngày cai sữa không chỉ phụ thuộc vào năng suất mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ thiết bị chuồng trại và trạng thái nái (cai sữa sớm hơn 20 ngày không mang lại hiệu quả tốt).

Khoảng cách từ khi cai sữa tới phối: Đó chính là thời gian nái lên giống sau cai sữa.Khoảng cách được coi là bình thường  vào khoảng 5 ngày tính từ ngày sau cai sữa. Heo có thời gian lên giống sau 5 ngày sẽ có số heo con đẻ ra cao. Nếu sang ngày 6 hoặc 7 thì năng suất sẽ thấp hơn. Chính vì vậy trong thời gian nái nuôi con việc quản lí nái và tăng cường dưỡng chất sau cai sữa là rất quan trọng để giúp nái lên giống trong vòng 5 ngày sau cai sữa.


7. Quản lý dinh dưỡng nái

Lượng cám nái ăn vào trong thời gian nuôi con ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian nái lên giống và số con đẻ ra lứa sau. Tuy nhiên, việc quản lý lượng thức ăn ăn vào và thể trạng của nái kéo dài từ khi mang thai tới khi nuôi con, nên nếu chỉ tăng lượng cám ở trại đẻ thì hiệu quả cũng khó đạt như mong muốn.

Vào cuối kì mang thai, điểm thể trạng của nái nếu đạt 3,5 thì heo sẽ đẻ dễ dàng. Vì vậy, trong quá trình nái mang thai phải từ từ điều chỉnh lượng cám để duy trì thể trạng phù hợp cho heo. Thông thường, từ một đến hai tuần ta điều chỉnh lượng cám cho từng cá thể nái mang thai. Nếu đến kì cuối mang thai nái quá ốm và ta tăng lượng cám lên quá nhiều thì sau khi đẻ nái sẽ không ăn được nhiều cám. Tổng số cám nái ăn ở trại đẻ chia cho số ngày nuôi con bình quân phải đạt trên 6 kg thì năng suất lứa sau mới gia tăng.

8. Tối đa hóa lượng trứng rụng
Để tăng số heo con đẻ ra cần tăng lượng trứng trụng ngay từ lần thứ 1. Những nguyên nhân gây ảnh hưởng lớn nhất đến lượng trứng rụng là dinh dưỡng cho nái. Đặc biệt là tăng cường dinh dưỡng trước khi heo lên giống. Việc tiếp xúc với heo đực đã thành thục vào thời kì này cũng rất quan trọng, nhưng nếu heo đực luôn ở bên cạnh nái sẽ không tốt cho việc rụng trứng và lên giống. Nếu có thể 3 ngày trước khi lên giống cho tiếp xúc với đực khoảng 10 phút ngày 2 lần.

9. Quản lí thời kì trứng làm tổ
Cho dù trứng rụng nhiều, thời điểm phối chính xác nhưng trong thời gian khoảng 4 tuần đầu nếu quản lý nái không tốt thì số heo con đẻ ra sẽ không nhiều. Lý do là trong thời gian này trứng thụ thai đi vào bên trong tử cung, chỉ có 70~80% số trứng thụ tinh làm tổ được. Tuy nhiên, nếu trong thời gian này nái bị stress, di chuyển nhiều do nuôi nhốt chung hoặc bị kích động thì tỷ lệ trứng làm tổ thành công sẽ bị giảm. Kết quả là số lượng con đẻ ra ít đi. Chính vì vậy cần hạn chế di chuyển nái 4 tuần đầu sau khi phối.

Biên dịch: Heo Team
Theo Pig & Pork


Tập tính và sinh lý của heo

Tập tính và sinh lý của heo / Habits and physiology of hog
Biết được tập tính và sinh lý của heo, bạn mới hình dung rõ môi trường nuôi dưỡng, thức ăn và mức dinh dưỡng trong thức ăn ảnh hưởng quan trọng thế nào đối với sự phát triển và sản xuất của heo. Bạn sẽ hiểu tại sao phải cho heo con sử dụng mức dinh dưỡng khác với heo trưởng thành, tại sao nuôi heo thịt khác với nuôi heo đẻ....
1. Tập tính heo
1.1. Nuôi con không tốt
a. Lơ đễnh sau khi sinh: Heo con dùng khứu giác trong bóng tối để tìm đến vú mẹ
b. Không liếm heo con mới sinh: Các loài có vú thường liếm con mới sinhc. Cho bú thoải mái: Các loài động vật đa thai thường cho con bú thoải mái (dẩn đến không công bằng cho heo con trong bầy)
d. Không cho nằm ở khu vực bụng ấm áp: Không ôm con, không liếm, không cho nằm bên cạnh, không cho đi theo.
Tham khảo: sau khi sinh
- Ôm con: loài linh trưởng kể cả người
- Thúc đẩy, dựng con đứng: đa số động vật ăn thịt
- Nằm bên cạnh: động vật ăn thịt nhỏ
- Đi theo: Đa số động vật ăn cỏ
Kết luận 
Nái sau khi sinh thường hay lơ đễnh không liếm heo con nên ta phải tự lau sạch chúng.
Những heo con yếu hơn heo bình thường nhanh chóng cho bú sữa đầu.
Heo không đủ độ ấm nên phải  điều chỉnh nhiệt độ phù hợp. Thân nhiệt khi mới sinh là 37~380C.Vì heo mẹ không sưởi ấm nên cần phải cung cấp nhiệt đầy đủ.

Cung cấp nhiệt đầy đủ: rất quan trọng
1.2. Sáng và tối
Heo là loài vật rất nhát nên chỗ bú sữa (cũng như ăn cám) và chỗ ngủ phải tối vì heo cảm thấy an toàn. Khi heo bài tiết hoặc chơi đùa heo thường chọn chỗ sáng.
Tập thói quen bài tiết cho heo từ khi ở trại đẻ
Không nên lắp đèn ở giữa đường đi phía đầu heo. Vì khu vực này sáng heo con theo mẹ sẽ nghĩ là nơi bài tiết nên khu vực máng ăn sẽ rất dơ.
Nên lắp đèn ở giữa đường đi phía sau của heo. Nó sẽ tạo thành thói quen đi vệ sinh đúng chỗ như nái.
Nếu heo con được huấn luyện đầy đủ về khu vực sáng và tối, khi chuyển qua các trại cai sữa và thịt thì chuồng ít bị dơ hơn. Vì vậy khi thiết kế chuồng trại và ánh sáng phải cẩn trọng.
Lồng úm heo
Lồng úm heo hoạt động tốt nhất vào mùa nóng vì nhiệt độ phù hợp cho nái và heo con có sự chênh lệch rất lớn.
Vị trí của nơi phát ra nguồn nhiệt: vào mùa nóng không cho nguồn nhiệt ảnh hưởng tới nái. Mùa lạnh tạo sự ấp ám cho khu vực xung quanh.
1.3. Đặc tính hành động
Tỷ lệ các hành động trong ngày:
Tóm tại thời gian ăn và ngủ chiếm tới 80% (19 tiếng) vì vậy cần tạo cho heo chỗ nghĩ yên tĩnh.
2. Đặc tính sinh lý
2.1. Động vật đa thai có khả năng sinh sản cao
- Lớn nhanh, dễ nuôi dưỡng, thân thiện với người. Nên được chọn làm gia súc nuôi
- Là loài rất nhát: cần quản lý kĩ
- Khứu giác rất phát triển: cần chú ý khi ghép bầy
- Thường tạo thành một bầy ( 12~15 con): chú ý khi di chuyển.
- Mũi và hàm dưới: Mũi heo có sức mạnh giống như xe ủi đất và hàm dưới đóng vai trò như một cái muỗng.
2.2. Phát triển nhanh
Heo tăng trưởng rất nhanh. Nhưng mỗi lần bị tiêu chảy heo tăng trưởng rất chậm

2.3. Heo sơ sinh
Nhanh chóng cho bú sữa đầu - khắc phục được tiêu chảy và nhiễm bệnh:
Trong sữa đầu có các chất kháng thể các loại vi khuẩn, virus, độc tố được nái truyền sang. Heo con khi bú sữa đầu sẽ nhận được kháng thể nhằm chống lại các loại dịch bệnh.Nếu không được bú sữa đầu thì khi mới sinh  heo con sẽ không có khả năng tạo ra kháng thể cho mình.
Thành công hay thất bại phụ thuộc vào 12 tiếng đầu sau khi sinh:
Đây là khoảng thời gian ruột non hấp thụ globulin. Sau khi sinh, trong vòng 12 tiếng tất cả heo con phải được bú sữa đầu.
Nhiệt độ ảnh hưởng tới tốc độ phát triển:
Nhiệt độ cao: thông thường khi nhiệt độ từ 25~30oC thì thân nhiệt bắt đầu tăng. Nó sẽ ảnh hưởng tới khả năng sinh sản. Tuy nhiên, tùy theo ngày tuổi của heo mà phạm vi nhiệt độ thích ứng cũng khác nhau.
Nhiệt độ lạnh: Nhiều gia súc thích ứng với nhiệt độ lạnh, so với nhiệt độ cao ít bị ảnh hưởng. Tuy nhiên heo con mới sinh nếu bị lạnh sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển và khả năng hồi phục sẽ chậm.
2.4. Quản lý nái
Nái dễ bị táo bón:
Heo thường mệt mỏi khi sinh nên không ăn cám. Nước cũng không uống. Nên dễ bị sốt khi đẻ và không đứng dậy được.
Khắc phục: Vào ngày đẻ cho ăn ít cám hoặc không cho ăn. Cho heo đứng dậy khi đi vệ sinh.
Nguyên nhân gây giảm tỷ lệ đẻ (vào mùa nóng:)
Trứng không được thụ tinh. Nguyên nhân do heo đực – kiểm tra trạng thái tinh trùng
Trứng thụ tinh không phát triển. Do sau khi phối đến 14 ngày nhiệt độ trên 30 độ, khiến quá trình phát triển thai nhi không tốt, thai bị chết số lượng con giảm
Trại đẻ nên để hơi tối :
Nếu để tập heo con đi bài tiết đúng chỗ thì khu vực đó có thể lắp thêm đèn. Chỉ lắp đèn khu vực cần thiết không nên để ảnh hưởng khu vực xung quanh.
Sau khi cai sữa cần chuyển sang chỗ sáng hơn:
Nếu cần thiết có thể mở đèn 24 tiếng. Nói tóm lại là kéo dài thời gian chiếu sáng.
Sử dụng các loại đèn có ánh sáng nhẹ (không chói) không sử dụng máng đèn.
Ánh sáng giúp rút ngắn thời gian lên giống lại.
Biên dịch: Heo Team
Theo Pig & Pork

Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2014

Khả năng bú sữa của heo con sơ sinh

Khả năng bú sữa của heo con sơ sinh


Heo nái không có hành động liếm heo con sơ sinh của mình, chăm sóc con mình không chu đáo bằng các loài động vật khác. Do vậy, sau khi sinh xong cần nhanh chóng cho heo con bú sữa đầu.
Thời điểm nào heo con sẽ bắt đầu uống sữa mẹ?
1. Kết quả quan sát heo con sau khi sinh.
Đây là kết quả quan sát hành động 27 heo con của 4 bầy kể từ khi mới sinh đến khi bú mẹ mà không có sự can thiệp của người quản lý tại Nhật Bản. Chuồng đẻ được xây bằng khung chuồng nái đẻ, nền bê tông có rải mùn cưa. Nhiệt độ trong phòng khoảng 25oC.
Chỉ số dưới đây là kết quả trung bình của 27 heo con:
  • Từ lúc sinh tới khi bụng chạm vào nền chuồng (0,7 phút).
  • Đứng bằng chi trước, tư thế ngồi bằng mông giống chó (0,9 phút).
  • Giữ nguyên tư thế trên và bắt đầu tiếp xúc với nái (1,3 phút).
  • Chân sau đứng lên, đứng bằng 4 chân (1,9 phút).
  • Di chuyển về phía chân sau của nái, đi qua chân sau của nái hoặc tiếp xúc với vú nái (5,1 phút).
Bắt đầu bú sữa (11,6 phút), tuy nhiên heo con vẫn chưa đứng vững bằng 4 chân nên heo vẫn chưa bú mẹ ổn định.
Như vậy, đến lúc heo con bú sữa mẹ ổn định phải cần một khoảng thời gian dài hơn 11,6 phút. Thời gian bình quân cho đến khi heo bú sữa đầu đầy đủ phải cần 16,6 phút.
Sữa mẹ
Sau khi tiếp xúc với vú nái, heo con luôn tiếp tục duy trì hành động tiếp xúc với mình nái. Việc tiếp xúc ban đầu là dùng phần đầu của mũi để hít ngửi, đụng vào bề mặt da nái. Ý nghĩa của hành động này là như thế nào? Dĩ nhiên là để tìm đầu vú và bú sữa mẹ.
Việc bú sữa mẹ là bản năng của heo con. Heo con thường tiếp xúc với vùng da phía dưới nái do khu vực này ấm áp, mềm mại và ít lông. Các thí nghiệm cũng đã chứng minh được điều này. Để bú được sữa mẹ, heo con phải tìm đến ngực nái. Bản năng của heo con khi sinh ra là chúng biết cách kích thích ngực của nái. Tuy heo tiếp xúc được với ngực nái nhưng do chưa ngậm được bầu vú nên chúng chưa bú được sữa. Sau khi tiếp xúc được với vùng ngực của nái, heo sẽ không ngừng tìm kiếm bầu vú, chúng bắt đầu ngậm vào bầu vú và bú sữa đầu.

Những vấn đề heo thường gặp phải vào mùa nóng

.


Những vấn đề phát sinh vào mùa nóng:
- Gia tăng số heo không lên giống hoặc lên giống yếu.
- Giảm tỷ lệ số heo lên giống lại sau cai sữa trong vòng 7 ngày, tăng số heo chậm lên giống.
- Giảm tỷ lệ đẻ.
- Tăng tỷ lệ heo con bị nái đè.
- Heo đực giảm tính hăng.
- Tinh heo đực bị ảnh hưởng (tăng tỷ lệ lên giống lại sau khi phối và giảm tỷ lệ thụ thai).
- Giảm lượng cám heo thịt ăn vào (ngày tuổi xuất chuồng chậm hơn so với dự kiến).
- Stress do nhiệt độ cao làm ảnh hưởng tới việc tiết ra hóc - môn.
- Sau cai sữa nồng độ hóc - môn FSH, LH ... giảm, ảnh hưởng do trứng rụng. FSH (hóc-môn kích thích nang trứng), LH (hóc-môn tạo thể vàng).
- Giảm tiết estrogen làm cho nái lên giống yếu.
- Giảm tiết hóc-môn progesterone (hóc-môn duy trì mang thai) dẫn đến tăng tỷ lệ lên giống lại trong vòng 25 - 35 ngày.
Nguyên nhân ảnh hưởng tới năng suất heo sinh sản:
- Quản lý thể trạng nái (BCS) không tốt: cần lưu ý là nếu lượng mỡ trong cơ thể giảm 1% thì năng suất lứa tiếp theo sẽ giảm 0,1 con.
- Phối heo hậu bị không phù hợp: phối khi ngày tuổi, trọng lượng không phù hợp dẫn tới năng suất sụt giảm.
- Trại phát sinh dịch bệnh: Bệnh Aujeszky, PRRS, PED, TGE ...
- Tỷ lệ nái tơ cao: cần có kế hoạch đào thải và nhập hậu bị mới phù hợp (lứa 01: tiêu chuẩn 18 - 20%).
- Nái yếu (quản lý ghép bầy không phù hợp). Cần chờ sau khi nái hồi phục mới phối.
- Tăng heo sẩy thai, không có sữa, heo bỏ ăn.
Quản lý giảm số heo lên giống chậm:
- Quản lý nái cai sữa: khi cai sữa nhanh chóng quyết định đào thải nái có năng suất kém và nái già. Vào ngày cai sữa, nên tiêm bổ sung một lượng thích hợp vitamin cho nái. Nái lứa một cần một lượng dinh dưỡng cao. Cho đến lúc phối nên nuôi nhốt chung với các nái khác, mỗi ngày cho tiếp xúc với đực nhằm kiểm tra lên giống.
- Quản lý nái lên giống chậm: trường hợp nái lên giống chậm trên 10 ngày sau khi di chuyển thì tiêm hóc-môn PMSG.
Sau khi sử dụng PGF2, 12 tiếng sau tiêm PMSG thì sẽ có hiệu quả. Cho tiếp xúc với heo đực một ngày 2 lần để kiểm tra heo lên giống. Sau khi xử lý hóc môn, nếu heo không lên giống thì có thể tạo stress cho heo bằng cách tăng giảm cám. Trong trường hợp phán đoán heo không lên giống được thì nên đào thải.
Quản lý và khắc phục những thiệt hại do mùa nóng:
Quản lý heo đực:
Nhiệt độ vượt quá 30oC sẽ giảm hoạt lực tinh trùng và số lượng tinh trùng.
- Biện pháp quản lý khi cảm nhận thân nhiệt heo trên 30oC: cho gió thổi trực tiếp vào heo với vận tốc 1m/s giúp giảm thân nhiệt cảm nhận khoảng 4oC.
- Nhiệt độ heo cảm nhận = nhiệt độ chuồng - 4 tốc độ gió (m/s).
- Một tuần sát trùng một lần.
- Tháng 5 và tháng 9 kiểm tra chất lượng tinh.
- Áp dụng thụ tinh nhân tạo sẽ hạn chế được việc tập trung nhiều heo đực để phối.
- Cần bổ sung các chất dinh dưỡng vào cám hoặc chích trực tiếp.
- Nên phối vào buổi sáng hoặc buổi chiều lúc trời mát mẻ.
- Ghi chép các thông tin lên bảng tên.
- Một tháng một lần tiêm hóc-môn testosterone.
- Bổ sung thêm vitamin C. Vitamin C giúp giảm stress do sốc nhiệt khiến chất lượng tinh và tỷ lệ thụ thai được cải thiện.
Bảng 1: Số lần sử dụng heo đực thích hợp theo tháng tuổi
   Tháng tuổi                Số lần sử dụng tối đa/tuầnSố lần sử dụng thích hợp
8 - 921
10 - 1232
134 - 53 - 4
Quản lý heo hậu bị:
- Vào những tháng có thời tiết nóng thì nên chuẩn bị trước heo hậu bị (tăng số con mua vào so với những tháng thông thường 30 - 50%).
- Cần có thời gian cho hậu bị mua về được cách ly và thích nghi với môi trường nuôi mới.
- Nên ghi chép các thông tin lên bảng tên và bấm số cho hậu bị. Ngày nhập về không cho ăn chỉ cung cấp nước sạch.
- Kiểm tra lên giống và quản lý theo ngày tuổi.
  • 180 ngày tuổi: hỗ trợ heo lên giống. Để tránh heo béo phì, sau lần lên giống đầu tiên nên điều chỉnh lượng cám 2kg/ngày.
  • 200 ngày tuổi: tăng lượng cám heo ăn vào từ lần lên giống thứ hai đến lần lên giống thứ ba.
  • 220 ngày tuổi: lên giống thứ ba, tiến hành phối giống - trước khi phối 2 tuần thì tăng lượng cám ăn vào (3kg/ngày). Trước khi phối giống một tuần, mỗi ngày cho tiếp xúc với đực.
- Chích vắc-xin cần thiết cho hậu bị.
- Kiểm tra số núm uống với số lượng hậu bị trong bầy.
- Lắp các lưới che nắng.
- Kiểm tra các thiết bị thông thoáng khí.
Quản lý trại phối:
- Vào mùa nóng, tỷ lệ đẻ thường giảm 10% so với thông thường. Chính vì vậy, nên chuẩn bị số heo phối tăng lên 10 - 20%.
- Thời gian phối, nên phối vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối.
- Thời điểm phối cũng phụ thuộc vào số ngày heo lên giống lại. Sau cai sữa, nái lên giống lại từ ngày 3 - 5 thì nên phối sau 12 giờ, nái lên giống lại sau 6 ngày nên phối ngay để tăng tỷ lệ mang thai.
- Cung cấp đầy đủ ánh sáng cho nái: ánh sáng rất quan trọng cho việc lên giống của nái. Chính vì vậy, nên sử dụng đèn và chỉ tắt khoảng 2 - 3 tiếng mỗi đêm.
- Những heo lên giống yếu thì nên phối liền sau khi phát hiện. Sau khi phối, nên ghi chép thông tin vào bảng tên, ghi tên của heo đực lấy tinh để phòng ngừa việc khai thác quá mức heo đực.
Quản lý heo mang thai:
Heo bị stress do nhiệt có thể giảm tỷ lệ thụ thai và tỷ lệ lên giống lại tăng, nên ta cần chẩn đoán mang thai và kiểm tra lên giống nhằm phát hiện ra sự cố sớm.
  1. Xử lý sớm những heo bỏ ăn.
  2. Kiểm tra chương trình cho ăn.
  3. Kiểm tra mang thai một tuần một lần.
  4. Kiểm tra lên giống một ngày hai lần.
  5. Lắp đặt hệ thống thông khí, làm mát nhằm giảm thân nhiệt.
Quản lý trại đẻ:
- Nếu sử dụng thuốc kích thích đẻ thì có thể điều chỉnh được thời gian heo bắt đầu đẻ: cần phải ghi chép thông tin lên bảng tên nái, để khi xảy ra các sự cố có thể nhanh chóng xử lý các trường hợp đẻ khó.
- Xử lý nái đẻ khó bằng cách tiêm thuốc hạ sốt + kháng sinh + chất dinh dưỡng.
- Cho ăn vào lúc thời tiết mát mẻ: sáng sớm hoặc chiều tối.
- Cho ăn một ngày trên 3 lần trường hợp lượng cám ăn vào bị sụt giảm.
- Tìm nguyên nhân nái bỏ ăn để nhanh chóng khắc phục.
- Cung cấp chất dinh dưỡng hỗ trợ tiêu hóa cho nái.
- Nếu cho ăn dạng lỏng thì sẽ tăng được lượng cám ăn vào.
- Cung cấp đầy đủ nước sạch cho heo. Nên chuẩn bị sẵn ống nước để có thể cung cấp thêm nước cho nái sau khi đẻ hoặc nái bỏ ăn.
- Điều chỉnh số con trong bầy.
Quản lý trại cai sữa:
Thời tiết nóng có thể làm chậm khả năng phát triển của heo.
- Kiểm tra núm uống và điều chỉnh độ cao (điều chỉnh áp lực nước).
- Thường xuyên cung cấp cám tươi.
- Phân chia lại bầy (chia đực cái hoặc theo trọng lượng).
- Quản lý thông khí (độ ẩm, chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm).
Quản lý trại thịt:
- Kiểm tra các thiết bị cấp nước.
- Kiểm tra cách thức cho ăn: máng ăn phải vệ sinh sạch cám 1 lần/ ngày.
- Lắp đặt các lưới che nắng.
- Lắp quạt.
- Điều chỉnh mật độ nuôi: dưới 0,9 con/m2.
Biên dịch: Heo Team
Theo Pig & Pork

Ayam Cemani

Thứ Tư, 27 tháng 8, 2014

HIỂU BIẾT VÀ ĐỐI PHÓ VỚI BỆNH TAI XANH (PRRS) - PGS. TS. TRẦN THỊ DÂN, PGS. TS. NGUYỄN NGỌC TUÂN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HCM

HIỂU BIẾT VÀ ĐỐI PHÓ VỚI BỆNH TAI XANH (PRRS) - PGS. TS. TRẦN THỊ DÂN, PGS. TS. NGUYỄN NGỌC TUÂN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HCM

   Diễn biến bệnh tai xanh ở Việt Nam

   Đến nay, các nhà khoa học thú y thế giới vẫn chưa biết rõ nguồn gốc của vi-rút gây bệnh tai xanh (PRRS) và chưa kiểm soát vi-rút hoàn toàn nên bệnh vẫn xảy ra trầm trọng ở Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, bệnh này được phát hiện trên đàn heo giống nhập từ Mỹ vào năm 1997 (kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể) nhưngheo không có triệu chứng bệnh. Số trại nhiễm và số heo dương tính kháng thể tăng qua các năm, lần lượt là 35% số trại và 18% heo trong năm 1997 (Nguyễn Lương Hiền và ctv, 2000), 85% số trại và 36% heo vào năm 2003 (Trần Thị Bích Liên và Trần Thị Dân, 2007). Đến năm 2007, bệnh đã xảy ra ở 26 tỉnh thành thuộc 3 miền trên cả nước với trên 70.000 heo mắc bệnh, số heo chết và tiêu hủy trên 17.000 con. Năm 2010, bệnh phát tán ở 47 tỉnh thành với 833.641 heo mắc bệnh, trong đó 457.708 heo chết và tiêu hủy. Đầu năm 2012 đến nay, bệnh xảy ra tại 9 tỉnh phía Bắc (tháng 1 đến tháng 6) rồi đến Bạc Liêu, Đồng Nai, Bình Dương và Long An (tháng 6/2012) nhưng quy mô ổ dịch nhỏ hơn so với năm 2010 (báo cáo của Cục Thú Y). Đến ngày 4/7/2012, bệnh đang xảy ra ở huyện Trảng Bom, Cẩm Mỹ, Vĩnh Cửu, Long Thành và Nhơn Trạch của Đồng Nai, số heo tiêu hủy của cả tỉnh khoảng 2.400 con nếu tính từ cuối tháng 5/2012. Nguyễn Thị Mến (2011) khảo sát vùng dịch gồm 10.375 hộ chăn nuôi (trong đó 21,8% hộ có heo bệnh và 50% heo bệnh) đã cho biết đàn heo còn lại phải chịu chi phí tăng thêm 245.000 đồng/heo giống và 159.000 đồng/heo nuôi thịt do tiền hỗ trợ tiêu hủy heo bệnh từ ngân sách nhà nước. Tương tự, ởHoa Kỳ hằng năm bệnh PRRS gây tổn thất khoảng 668 triệu đôla (tương đương 13.360 tỷ VNĐ) chưa kể chi phí thuốc vắc xin, thuốc điều trị, chẩn đoán và an toàn sinh học.

   Biểu hiện triệu chứng trên heo bệnh PRRS đã thay đổi qua hai mốc thời gian. (1) Trước năm 2007, bệnh chủ yếu gây sẩy thai và heo nái giảm năng suất sinh sản, heo con sau cai sữa biểu hiện bệnh đường hô hấp, viêm kết mạc mắt và phù mi mắt. (2) Từ cuối năm 2006, xuất hiện vi-rút biến chủng tuýp 2 (dòng Bắc Mỹ) tại Trung Quốc cùng với vận chuyển trái phép heo bệnh và không áp dụng nghiêm túc an toàn sinh học ở trại/hộ chăn nuôi, hậu quả là dịch PRRS lây lan mạnh trên diện rộng với nhiều trường hợp phụ nhiễm vi khuẩn, nhất là người bị nhiễm vi khuẩn Streptococcus suis gây chết do tiếp xúc heo bệnh tai xanh. Biểu hiện bệnh trên heo nặng hơn và có thể nhầm lẫn với bệnh dịch tả heo, bao gồm sốt và đỏ mình (77% số heo bệnh), viêm kết mạc mắt (10%), ho (15%), xuất huyết vành tai hoặc tai xanh (5%), nái sẩy thai (66%), nái chết lúc đẻ (4,5%), heo sau cai sữa có thể tiêu chảy. Tại vùng dịch tai xanh năm 2010 (có 10.375 hộ chăn nuôi) ở một tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, khoảng 21,8% số hộ chăn nuôi có heo bệnh với các triệu chứng nêu trên, và tỷ lệ heo bệnh lên đến 50%. Trong 11 tuần xảy ra dịch, tỷ lệ hộ mới mắc bệnh đạt đỉnh cao vào tuần thứ 4 rồi giảm dần trong điều kiện công bố dịch. Viêm phổi, sưng hạch lymphô và xuất huyết lách/thận là các bệnh tích thường gặp. Nếu sớm điều trị phụ nhiễm vi khuẩn bằng kháng sinh phổ rộng, tỷ lệ khỏi bệnh khoảng 33-55% (thấp nhất ở  heo sau cai sữa đến 2 tháng tuổi). Nhìn chung, triệu chứng bệnh khá đa dạng, liên quan đến tổn thương thành mạch máu và phụ nhiễm.      
(a)  Đỏ da và thở khó                                                (b) Chảy nước mũi và tai xanh
Hình 1.Heo bệnh PRRS       

   Đặc điểm mầm bệnh và tính khả thi trong kiểm soát vi-rút

   Sức sống của vi-rút PRRS giảm nhanh khi nhiệt độ tăng. Nó bị bất hoạt hoàn toàn ở 37°C trong 48 giờ và 45 phút ở 56°C. Vi-rút mất khả năng gây nhiễm rất nhanh ở pH dưới 6 (môi trường axít nhẹ) và trên 7,5 (môi trường kiềm). Ở 25–27°C, vi-rút không tồn tại trên vật dụng bằng nhựa, sắt thép, cao-su, gỗ, trấu, bắp hoặc áo quần vải bông sử dụng lần đầu.Tuy nhiên, vi rút PRRS khá bền trong môi trường nuôi cấy, huyết thanh và huyễn dịch mô khi nhiệt độ lạnh âm 70°C, và tồn tại 9 ngày trong nước giếng; điều này ngụ ý rằng người chăn nuôi không nên vất bỏ heo chết xuống sông/suối hoặc vận chuyển heo đang mắc bệnh, và nên tẩy uế sát trùng tất cả các chất thải từ heo bệnh.

   Ở 20-25°C, vi-rút bất hoạt hoàn toàn (vỏ của vi-rút bị phá vỡ) bởi clor 0,03% trong 10 phút, i-ốt 0,0075% trong 1 phút, hợp chất amôn bậc bốn 0,006% trong 1 phút. Tóm lại, vi-rút giảm khả năng gây lây nhiễm và dễ bị tiêu diệt ở điều kiện môi trường khô, bởi nhiệt hoặc chất sát trùng thông thường.

   Vi-rút PRRS có khả năng nhiễm mạnh. Heo dễ dàng bị nhiễm bởi vài hạt vi-rút (virion); tuy nhiên, vi-rút không lây lan nhanh vì chúng có khuynh hướng nhân lên trong đại thực bào (bạch cầu đơn nhân đã biệt hoá) ở các mô, đặc biệt ở phổi và hạch bạch huyết. Như thế, người chăn nuôi phải theo dõi đàn heo mỗi ngày và sớm xử lý heo bệnh (cách ly, sát trùng và giữ khô chuồng trại, giết huỷ heo có triệu chứng nghi ngờ). Heo nuôi ở các giai đoạn tuổi đều có thể mắc bệnh nhưng vi-rút nhân lên mạnh ở heo non nên chúng bị bệnh nặng hơn so với heo trưởng thành, thí dụ 61% heo cai sữa so với 41% heo sinh sản mắc bệnh trong một ổ dịch năm 2010 ở một tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, heo ở mỗi giai đoạn tuổi khác nhau nên được nuôi trong các dãy chuồng riêng biệt, nhất là giai đoạn sau cai sữa.

   Heo rừng nhạy cảm nhưng hiếm khi mắc bệnh; tuy nhiên trong ổ dịch, heo rừng lai cũng mắc bệnh khi nuôi chung với heo nhà (Đồng Nai, 6/2012).Vịt nhạy cảm với vi-rút PRRS nhưng vi-rút không nhân lên trong cơ thể vịt. Do đó, không nhốt lẫn lộn các động vật khác nhau trong dãy chuồng heo nhà.

   Khi vi-rút PRRS đã hiện diện trong đàn heo, tình trạng nhiễm sẽ trở nên dai dẵng. Ba khía cạnh cần lưu ý: (1) Vi-rút có khả năng biến chủng mặc dù sự biến chủng chỉ mới được đánh giá dựa trên thay đổi trình tự của đoạn nucleotit. (2) Vi-rút gây suy giảm miễn dịch vì làm hư hại đại thực bào nên bạch cầu này giảm khả năng trình diện kháng nguyên và chậm kích hoạt miễn dịch tạo kháng thể trung hoà vi-rút. Vì gây suy giảm miễn dịch nên tạo điều kiện cho các mầm bệnh khác tấn công gây chết, nhất là trong điều kiện quản lý phòng bệnh không hợp lý, stress do thời tiết, chuồng trại không thoáng mát, dinh dưỡng không thỏa mãn nhu cầu của các giai đoạn sinh trưởng và sức sản xuất. Nhiễm dai dẵng không liên quan đến tuổi heo ở thời điểm nhiễm mà tùy thuộc tình trạng miễn dịch của đàn heo đang nhiễm vi-rút và sự hiện diện của những heo nhạy cảm (heo sơ sinh, heo mới nhập đàn, heo mới cai sữa, hoặc heo giảm lượng kháng thể dưới mức bảo hộ). (3) Sau khi đạt đỉnh cao trong máu, lượng vi-rút huyết giảm nhanh chóng, phần lớn heo không còn nhiễm vi-rút huyết vào khoảng 28 ngày sau nhiễm mặc dù vẫn có thể phát hiện RNA của vi-rút trong huyết thanh bằng kỹ thuật RT-PCR lúc 251 ngày sau nhiễm. Tuy nhiên bào thai nhiễm vi-rút trong giai đoạn đầu của thai kỳ thì vẫn phát hiện được RNA của vi-rút trong máu lúc 228 ngày sau khi sinh. Sau khi giảm trong máu, vi-rút vẫn tiếp tục nhân lên ở các hạch lymphô (nhất là  hạch amidan, hạch bẹn …) với mức độ chậm nên gây nhiễm dai dẵng. Ngoài ra, vi-rút PRRS có thể có biến chủng nếu mua heo từ nhiều nguồn nhiễm chủng vi-rút PRRS khác nhau hoặc sử dụng vắc-xin phòng bệnh PRRS không hợp lý, khi ấy dịch tễ bệnh có thể trở nên phức tạp. Do đó, ngăn ngừa nhiễm vi-rút PRRS vào trại, giảm stress cho heo và kiểm soát phụ nhiễm trên đàn heo mắc bệnh PRRS là những giải pháp cần được quan tâm.

   Nguồn chứa và đường xâm nhập của mầm bệnh

   Heo bệnh phát tán mầm bệnh qua nước bọt, chất tiết từ mũi, nước tiểu, tinh dịch và hiếm khi qua phân. Heo nái mang thai nhiễm bệnh vào cuối thai kỳ thì phát tán mầm bệnh qua sữa. Trong số heo nái sẩy thai, 88% nái sẩy thai ở tháng thứ ba của thai kỳ. Vi-rút gây chết thai giai đoạn cuối của thai kỳ vì thụ thể tiếp nhận vi-rút PRRS chỉ xuất hiện ở thai heo từ 70 ngày tuổi; như thế, thai mới chết hoặc thai yếu là một trong các nguồn lây nhiễm trong đàn heo.

   Vi-rút trong tinh dịchđược quan tâm vì tinh heo đực được truyền phối cho nhiều heo nái. Thời gian phát tán mầm bệnh trong tinh dịch rất thay đổi. Người ta phát hiện được vi-rút trong tinh dịch của heo đực giống sau 92 ngày gây nhiễm bệnh, hoặc 30 ngày sau khi tiêm vắc xin nhược độc MLV (sau đó, vi-rút của vắc-xin không còn tìm thấy trong tinh dịch).

   Truyền lây gián tiếp bằng kim tiêm đã nhiễm vi-rút, người hoặc động vật khác  mang vi-rút từ máu/dịch chất của heo bệnh, côn trùng phơi nhiễm mầm bệnh (chuột, ruồi, muỗi). Truyền lây gián  tiếp bằng khí dung (không khí) lại phụ thuộc vào biến thể vi-rút và các yếu tố môi trường. Các yếu tố nguy cơ cho sự phát tán vi-rút qua không khí từ nguồn bệnh đến một quần thể khác gồm hướng gió và vận tốc (kể cả gió từng cơn với vận tốc thấp), nhiệt độ thấp, ẩm độ cao và nắng yếu.  

Hình 2.Không nên nhốt chó trong chuồng heo                       Hình 3. Không nuôi chung heo rừng với heo nhà

   Tóm lại, heo cảm thụ vi-rút PRRS bằng nhiều con đường phơi nhiễm; bao gồm đường mũi, đường tiêm bắp, đường miệng, tử cung và âm đạo. Liều gây nhiễm có lẽ khác nhau tùy theo đường phơi nhiễm. Người ta đã gây nhiễm thành công cho heo khi tiêm vào bắp cơ với liều ít hơn 20 hạt vi-rút PRRS, hoặc liều gây nhiễm 50% (ID50) bằng đường miệng và đường mũi lần lượt là 105,3 TCID50  và 104,0 TCID50. Tuy nhiên, sự truyền lây biến thiên trong các ổ heo con. Một số bầy có huyết thanh chuyển dương sớm (lúc 6-8 tuần tuổi), nhưng cũng có cá thể chuyển dương lúc 12 tuần tuổi. Do đó, cần định kỳ xét nghiệm các nhóm heo trong trại để biết sự biến động kháng thể trong đàn. Tuy nhiên, mức kháng thể dựa vào kết quả ELISA không thể hiện khả năng bảo hộ cũng như tình trạng nhiễm PRRS có ổn định hay không, cho nên người chăn nuôi cần lấy thêm mẫu phổi và hạch lymphô của thai sống để xét nghiệm vi-rút nhiễm qua thai. Định nghĩa về trại nhiễm PRRS ổn định đã được nêu trong bài viết về an toàn sinh học trong số ấn bản đầu tiên của Bản Tin Kỹ Thuật này.    


Hình 4.Đáp ứng miễn dịch của heo chống lại vi-rút PRRS (Martelli, IPVS, 2012)

   Các giải pháp khống chế bệnh PRRS

   Những đặc điểm của bệnh cho thấy người chăn nuôi phải phối hợp nhiều biện pháp khống chế bệnh (ngăn chận vi-rút xâm nhập vào trại, hoặc giảm nhiễm vi-rút và giảm tỷ lệ heo bệnh), từ đó có thể tiến tới thanh toán bệnh. Bên cạnh những việc cần lưu ý đã nêu trong các phần viết ở trên (các thông tin in nghiêng màu đỏ), những giải pháp sau đây được đề nghị dựa vào các ghi nhận thực tế trong điều kiện còn nhiều hộ chăn nuôi nhỏ lẻ ở Việt Nam.

1.      Áp dụng triệt để an toàn sinh học:không nuôi heo ở các vị trí gần lò mổ/đường giao thông/chợ, tường rào tách riêng khu chăn nuôi, có khoảng sân tách xa chuồng nuôi để bán heo hoặc nhận nguyên liệu/thức ăn từ bên ngoài, cảnh giác tình trạng mang mầm bệnh từ nhân viên đi gieo tinh heo/chuyên chở thức ăn/thương lái mua heo/thú y viên, vệ sinh sát trùng tay chân/giày dép/quần áo trước khi vào khu vực nuôi heo, biết rõ nguồn mua tinh heo, không để dòng nước thải từ các hộ chăn nuôi xung quanh chảy gần chuồng heo của trại nhà, khử trùng nước sông/ao trước khi dùng cho heo, đun sôi thức ăn thừa của gia đình hoặc từ các hộ/quán ăn chung quanh trước khi cho heo ăn. Dùng kim tiêm riêng cho mỗi bầy heo.
2.      Bảo đảm vệ sinh chuồngvà xung quanh dãy chuồng (kể cả sân của khu vực bán heo) sao cho sạch, khô và thoáng mát, kể cả sạch bụi (màng nhện).
3.      Heo con được bú đủ sữa đầu và giảm tạo stress cho heo theo mẹ(giữ ấm và khô sạch, không ghép bầy nhiều lần, cung cấp nước uống sạch cho heo con càng sớm càng tốt).
4.      Giảm tạo stress cho heo sau cai sữa,thí dụ: tập ăn sớm với thức ăn dễ tiêu hoá, không cai sữa sớm trước 21 ngày tuổi, không nhốt mật độ đông (diện tích 0,3 m2 cho một heo sau cai sữa) và chuồng thoáng mát nhưng không lạnh ẩm.
5.      Ở trại đã nhiễm bệnh mà chưa dùng vắc-xin,gây nhiễm thích nghi cho heo hậu bị hoặc heo nái chưa bệnh sao cho chúng nhiễm nhẹ các chủng vi-rút có trong trại và phải hoàn tất giai đoạn phục hồi (không còn nhiễm vi-rút huyết) trước khi phối giống bằng  cách hậu bị/nái được nhốt gần chuồng nái bệnh đã khoẻ lại, tiêm huyết thanh hoặc cho ngửi máu/nhai dây có máu từ heo bệnh.
6.       Sử dụng vắc-xin phòng bệnh tai xanh còn là vấn đề bàn cãimặc dù đã có hiệu quả trong thực tế do bởi các lo ngại về biến chủng sau khi tiêm vắc-xin sống nhược độc và quy trình chủng thế nào là hợp lý, đặc biệt khi chưa có nhiều xét nghiệm ở Việt Nam để đánh giá sự thải vi-rút của vắc-xin qua bào thai hoặc ra môi trường bên ngoài. Nếu áp lực bệnh chung quanh trại quá lớn mà trại không bị nhiễm, có thể dùng vắc-xin chết tạo miễn dịch trong đàn mà không sợ mầm bệnh từ vắc-xin. Khi trại đã nhiễm bệnh, nên tham khảo ý kiến chuyên môn từ cán bộ kỹ thuật có kinh nghiệm trước khi dùng vắc-xin sống nhược độc.   
7.      Thực hiện quy trình phòng các bệnh khác,bao gồm vắc-xin phòng bệnh dịch tả heo và long móng lở mồm, quản lý bệnh do PCV2, kể cả quy trình dùng kháng sinh phòng bệnh do vi khuẩn bởi vì vi-rút PRRS gây ức chế miễn dịch.
8.      Bên cạnh quy trình nuôi dưỡng hợp lý và tránh dùng thức ăn nhiễm nấm mốc, hiệu quả của các chất hỗ trợ khả năng đề kháng của heo (beta-glucan tiêm hoặc bổ sung vào thức ăn, interferon tiêm cùng với vắc-xin chết) tùy thuộc vào diễn biến bệnh của trại. Do đó, nên ghi chép năng suất và diễn biến sức khoẻ của đàn heo mỗi ngày khi dùng chất hỗ trợ.

Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả.

Bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ UV-Việt Nam.

Trại tôi vừa rồi có bị tai xanh nhưng nhẹ, thiệt hại không đáng kể, tôi có nên giữ lại đàn nái để tiếp tục sản xuất không?

Trại tôi vừa rồi có bị tai xanh nhưng nhẹ, thiệt hại không đáng kể, tôi có nên giữ lại đàn nái để tiếp tục sản xuất không?


- Hỏi:
     Tôi đang phân vân giữa 2 ý kiến sau: trại tôi vừa rồi có bị tai xanh nhưng nhẹ, thiệt hại không đáng kể, tôi muốn giữ lại đàn nái để tiếp tục sản xuất nhưng có người lại bảo: nái đã mang trùng rồi, nếu có điều kiện nên đổi nái để cắt mầm bệnh, nhưng lại có người nói nái đã có sức đề kháng với bệnh nên mới qua được nên giữ lại. Tôi thấy cả hai đều có lý của nó, nên tôi nhờ chuyên gia tư vấn cho tôi. Xin cảm ơn.
-Trả lời: (pGS.TS. Nguyễn Ngọc Hải)
       Tất cả heo sau khi nhiễm PRRS và đã khỏi bệnh đều có miễn dịch chống lại bệnh này trong khoảng thời gian từ 3-6 tháng. Heo hậu bị đã bị nhiễm và đã điều trị khỏi bệnh sẽ có thể có miễn dịch đối với bệnh PRRS. Những heo hậu bị này nếu vẫn cho năng suất tốt thì có thể để làm giống, tuy nhiên chúng vẫn có thể mang virus PRRS và bài thải ra bên ngoài trong thời gian dài (có thể đến cả năm) sau khi hết triệu chứng, và như vậy có thể lây nhiễm vius PRRS cho các heo khác trong đàn nhất là heo sau cai sữa và heo hậu bị mới nhập đàn. Vì vậy, những heo này lại sẽ có lợi về mặt tạo sự ổn định miễn dịch chống lại bệnh PRRS, nhưng cần chú ý phòng bệnh PRRS trong trại bằng các biện pháp an toàn sinh học, vaccine phòng bệnh PRRS cho heo hậu bị ít nhất 2 tháng trước khi phối lần đầu, đặc biệt chú ý biện pháp cách lý, làm quen môi trường của trại cho heo mới nhập vào đàn trong thời gian này.
      Mặt khác xin lưu ý với trại là vius PRRS có thể tồn tại ở những heo khác không có biểu hiện triệu chứng và cả ở môi trường bên ngoài trong một thời gian khá dài, hàng tháng. Vì thế việc loại thải những heo vừa khỏi bệnh chỉ loại được Virus PRRS có ở những heo này nhưng không loại trừ hoàn toàn virus ra khỏi trại. Do đó nếu chọn giải pháp loại thải những heo vừa khỏi bệnh PRRS bằng các biện pháp an toàn sinh học, vaccin phòng bệnh PRRS trên đàn hậu bị, đàn heo sau cai sữa … Vì thể nếu không có điều kiện áp dụng nghiêm ngặt an toàn sinh học, tiêu trừ hoàn toàn virus ra khỏi trại sau khi loại thải nái vừa bệnh PRRS … có lẽ giải pháp giữ héo nái đã có miễn dịch với bệnh PRRS, có năng suất tốt, đồng thời áp dụng các biện pháp phòng chống bệnh PRRS như đã nêu ở trên là thích hợp nhất. Kính chúc anh thành công.

Tăng trưởng của heo cai sữa/ Growth of weaner

Tăng trưởng của heo cai sữa/ Growth of weaner
Heo con sau khi cai sữa có lớn nhanh hay không phụ thuộc vào tiềm năng tăng trọng có được phát huy. Tiềm năng này phụ thuộc vào các điều kiện khi heo con cai sữa như trọng lượng, dinh dưỡng, tỷ lệ tăng trưởng , sinh lý học, môi trường nuôi, lượng cám ăn vào. Khi cai sữa ngày tuổi khác nhau thì trọng lượng có thể chênh lệch 2 thậm chí 3 lần. Phổ biến các quốc gia trên thế giới cai sữa vào khoảng 3~4 tuần tuổi khi trọng lượng heo con hơn 6 kg. Đặc biệt các quốc gia Nam Mỹ thường cai sữa trước 3 tuần tuổi. Nếu cai sữa sớm thì có thể giảm các bệnh truyền nhiễm từ heo mẹ, nếu heo con cai sữa sớm trọng lượng sẽ nhẹ cần phải có chế độ quản lý, dinh dưỡng, môi trường phải thật tốt.
  1. Tiềm năng tăng trưởng của heo con cai sữa:


Heo con cai sữa 21 ngày tuổi khi không có triệu chứng bệnh lâm sàng và bị stress ta có thể ấn định mục tiêu tăng trưởng tuần 1, 2, 3 theo các mức 100, 200 và 400 gam/ ngày.


Thế nhưng mức độ tăng trưởng trên còn thấp hơn mức tiềm năng heo có thể phát triển. Theo thí nghiệm tại Edinburgh Anh, heo con khỏe mạnh cai sữa 3 tuần trọng lượng 5 kg cho ăn không hạn chế tăng trưởng đạt 500 g/ ngày gấp 2 lần so với thông thường.


Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng như vậy cũng chưa phát huy hết tiềm năng của heo con. Nếu heo con cai sữa vào đúng thời điểm tốt nhất và cho ăn cám lỏng làm từ sữa thì heo con có thể tăng trọng trên 500 g/ ngày.



  1. Ngừng tăng trưởng thời kì cai sữa:

Heo con thời kì cai sữa sẽ gặp 3 thách thức lớn.

    1. Những thay đổi lớn do cám
Có thể heo tự tìm đến cám tập ăn, nhưng đây là loại cám heo chưa từng ăn và có kích thước lớn và 88 % là các nguyên liệu khô


Ngược lại trong sữa mẹ có 80 % là nước và 20 % là nguyên liệu khô. Trong đó chất đạm chiếm 30 %, chất béo 40 %, đường lactose 25 % và  không có tinh bột. 


Chất béo và đường lactose trong sữa mẹ có tỷ lệ tiêu hóa đạt gần 100 %, tỷ lệ tiêu hóa các axit amin đạt 92 %. 


Cám tập ăn tỷ lệ tiêu hóa đạt thấp hơn, chỉ khoảng 80-90 %, thông thưởng là hỗn hợp đạm động vật và thực vật, tinh bột, so với sữa mẹ thì hàm lượng chất béo rất thấp. Và kết quả là hệ tiêu hóa heo con từ chủ yếu tiêu hóa chất béo phải chuyển sang tiêu hóachất bột đường tổng hợp. Hơn thế nữa nhằm duy trì đà tăng trọng heo con phải gia tăng lượng nguyên liệu khô ăn vào.


Ví dụ như heo con một ngày tăng trọng 250 g thì heo con phải nhận từ sữa mẹ 200 g nguyên liệu khô, nếu heo con ăn cám tập ăn mà tỷ lệ hấp thụ chỉ đạt 50 % thì phải ăn 300 g. Chất lượng cám nếu không tốt thì càng phải tăng lượng ăn vào.


Nếu mọi yếu tố liên quan tới cám thay đổi thì hệ tiêu hóa của heo sẽ thay đổi theo. Cơ quan tiêu hóa của heo sẽ phân chia các nhiệm vụ và cần thời gian dài là 1 tuần để thay đổi. Khi bất ngờ ngừng cung cấp sữa mẹ thì cấu tạo và chức năng bộ máy tiêu hóa trong vòng 1 tiếng sẽ bắt đầu thay đổi. Độ dài các nhung mao sẽ ngắn hơn. Men tiêu hóa lactase và sucrase sẽ giảm dẫn đến khả năng hấp thu sẽ giảm xuống.


Nếu ruột non không hấp thu các chất dinh dưỡng được tốt thì dễ tạo điều kiện cho sựphát triển của các vi khuẩn đường ruột (chủ yếu là vi khuẩn  viêm ruột kết), hoặc tiêu hóa không tốt các chất dinh dưỡng lên men ở ruột già. Hai tác động trên đều dẫn đến tiêu chảy.


  b. Những ảnh hưởng vật lý:

Vào thời kì cai sữa heo con phải sống trộn lẫn với heo con của các đàn khác. Heo con khi đang sống chung với các anh em cùng một mẹ phải chuyển sang môi trường sống khác, phải cạnh tranh có khi lên tới 250 con heo khác.


Các chuồng trại cai sữa phải thiết kế sao cho heo con cảm thẩy thoải mái tại chuồng trại mới. Việc điều chỉnh nhiệt độ phù hợp cho tất cả heo con trong đàn nhằm giúp chúng tăng lượng cám ăn vào hầu như là không thể làm được. 


Ví dụ như để tăng lượng cám ăn vào lên 2 lần phải hạ nhiệt độ tiêu chuẩn xuống 3 độ. Kéo theo đó lượng nhiệt độ tiêu chuẩn giữa heo con ăn nhiều nhất và heo con không ăn lên tới 12 độ. Lúc đó lượng thức ăn ăn vào chênh lệch tới 4 lần. Giả sử nếu ta thiết lập nhiệt độ thích hợp giúp một số heo con ăn nhiều nhưng một số heo thì bị stress do nhiệt độ lạnh. Nếu ta tăng nhiệt độ lên thì những heo con bị lạnh không ăn cám sẽ cảm thấy thích hợp, nhưng những con ăn được trước đó sẽ cảm thấy bị stress do nóng.



  c. Bị stress do di chuyển và nuôi hỗn hợp:
Một số nhà nghiên cứu tin rằng khi heo bị di chuyển và nuôi trộn lẫn thì heo sẽ hạn chế tăng trưởng nhưng chưa làm rõ được phạm vi ảnh hưởng đến dinh dưỡng.


Nếu tính được chính xác những điều kiện nuôi dưỡng thay đổi như thế nào thì sẽ không ngạc nhiên trước việc tỷ lệ tăng trưởng sau cai sữa bị giảm sút. Và cũng tính được heo con sẽ mất bao lâu để thích ứng với môi trường mới và tìm lại đà tăng trọng.



  1. Mối quan hệ giữa trọng lượng cai sữa và tăng trọng sau cai sữa:

Heo con có trọng lượng lớn bao giờ cũng lớn nhanh hơn heo con có trọng lượng nhỏ. Các nhà chăn nuôi biết rằng nếu trọng lượng sơ sinh lớn thì trọng lượng cai sữa sẽ lớn, heo có trọng lượng cai sữa lớn sẽ lớn nhanh hơn heo có trọng lượng cai sữa nhỏ. Chính vì vậy nếu trọng lượng cai sữa chênh lệch thì khi heo lớn lên trọng lượng chênh lệch sẽ cao. 


Trọng lượng sơ sinh tỷ lệ thuận với trọng lượng cai sữa, trọng lượng heo một tuần tuổi ảnh hưởng cao đến trọng lượng cai sữa, trọng lượng cai sữa ảnh hưởng tới năng suất sau cai sữa.


Tầm quan trọng của trọng lượng cai sữa là rất quan trọng thông qua việc nghiên cứu hai vấn đề sau:

Thứ nhất, trong thời gian bú sữa mẹ nếu heo được áp dụng các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng thì trọng lượng cai sữa sẽ nặng hơn.

Thứ hai, sau khi cai sữa trọng lượng heo con lớn hơn sẽ phát huy được khả năng tăng trưởng nhiều hơn.



  1. Hiệu quả của trọng lượng cai sữa và  cám heo tập ăn:

Heo con trong thời gian bú mẹ thường được cho ăn bổ sung cám heo tập ăn. Nhưng vấn đề là cám tập ăn này có bổ sung được đầy đủ chất dinh dưỡng đang dần thiếu hụt đi trong sữa mẹ.

Heo con cai sữa sớm 2 hoặc 3 tuần, heo nhỏ cần bổ sung dinh dưỡng thì vai trò của cám tập ăn còn quan trọng hơn nữa.


Trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về hiệu quả của cám tập ăn cho heo con trước 3 tuần tuổi nhưng vẫn chưa xác định chính xác lượng dinh dưỡng được hấp thu.


Tuy nhiên với các nghiên cứu trên vẫn rút ra được hai kết luận:

- Một là, nếu trước khi cai sữa heo con ăn cám tập ăn thì con nhiều nhất có thể hấp thu năng lượng tăng 17 %, con ít nhất sẽ không tăng một chút nào. Chúng ta còn ngạc nhiên hơn khi biết rằng chi phí cho cám tập ăn và trọng lượng liên quan không chặt chẽ với nhau.

- Thứ hai là trong thời kì bú mẹ nếu cho heo con ăn thêm thức ăn dạng lỏng thì sẽ thúc đẩy tăng trưởng. Sự hiệu quả về tăng trưởng của heo con khi ăn thức ăn dạng lỏng trong thời kì bú mẹ còn phụ thuộc vào ngày tuổi.

Kết luận lại nếu heo con ăn thức ăn dạng lỏng thời kì bú mẹ sẽ tăng trọng lượng khi cai sữa. Nếu tăng lượng sữa mẹ heo con bú thì trọng lượng cai sữa cũng sẽ tăng. Tuy nhiên khi cho heo con còn nhỏ ăn cám bột hầu như không có hiệu quả. Chỉ heo con cai sữa trễ lúc 4, 5 tuần tuổi mới có hiệu quả với cám bột.


Việc cho ăn cám tập ăn không đơn thuần là giúp gia tăng trọng lượng cai sữa. Mà việc tiếp xúc với cám bột sớm sẽ giúp heo học phương pháp vừa ăn cám vừa uống nước, giúp đường ruột làm quen với cám bột, giúp gia tăng hiệu quả tiêu hóa, giúp heo chuẩn bị tốt hơn với các dị ứng với các loại cám có nguồn gốc từ thực vật.


Đối với heo con cai sữa sớm có thể nghi ngờ về hiệu quả của cám tâp ăn, chỉ heo con cai sữa sau 3 tuần tuổi thì cám tập ăn mới có hiệu quả tốt. Tuy nhiên nếu heo con thời kì bú sữa được ăn một lượng cám tập ăn thích hợp sẽ có hiệu quả, khi cai sữa heo sẽ tăng trưởng nhanh hơn. Có thể việc cho ăn dạng lỏng như cháo sẽ không giúp tăng trọng lượng cai sữa nhưng nó có thể thúc đẩy tăng trưởng sau khi heo cai sữa. 
Biên dịch: Heo Team
Theo Pig & pork

KIỂM SOÁT TIÊU CHẢY TRÊN HEO CON SAU CAI SỮA BẰNG CHẾ PHẨM KẼM VI BỌC SHIELD Z

KIỂM SOÁT TIÊU CHẢY TRÊN HEO CON SAU CAI SỮA BẰNG CHẾ PHẨM KẼM VI BỌC SHIELD ZN
Trên heo, các rối loạn tiêu hóa thường xảy ra ở thời kỳ sau cai sữa. Nguyên nhân chính là do hệ thống enzym tuyến tụy của heo con chưa được phát triển đầy đủ, kết hợp với sự giảm lượng ăn vào do chuyển đổi đột ngột từ sữa mẹ sang dạng thức ăn hỗn hợp 

Cai sữa gây stress trên heo con, làm trầm trọng các vấn đề tăng trưởng, sinh lý, dịch bệnh, đặc biệt là tiêu chảy do E.coli. Bệnh này làm gia tăng tỷ lệ tử vong, chi phí điều trị, làm giảm nghiêm trọng tỷ lệ tăng trưởng của heo con trong suốt thời kì cai sữa và cả các giai đoạn phát triển tiếp theo. Để giảm thiểu tình trạng tăng trưởng kém sau cai sữa do tiêu chảy, heo con thường được bổ sung kháng sinh trộn trong thức ăn hoặc kẽm oxit nồng độ cao (2.500 – 3.000 ppm) trong khẩu phần. Tuy nhiên, giải pháp này gây ảnh hưởng trên tính ngon miệng của heo con. Đặc biệt hơn, các nghiên cứu cho thấy sự sụt giảm đáng kể lượng vi sinh vật có lợi trong đường tiêu hóa khi heo con được bổ sung hàm lượng kẽm hoặc đồng vô cơ với liều cao. Ngoài ra, môi trường cũng gánh nhiều hệ lụy từ vấn đề này. Ở Anh, một cuộc khảo sát nhằm đánh giá ô nhiễm kim loại nặng gây ra bởi phân gia súc đã cho thấy rằng lượng kẽm thải ra từ phân vật nuôi là nguồn ô nhiễm chính cho đất
Vậy liệu có giải pháp nào vừa bảo toàn sức khỏe heo con, vừa bảo vệ được môi trường sinh thái?
Một thí nghiệm đã được thực hiện ở Đan Mạch nhằm đánh giá về ảnh hưởng của việc bổ sung 2.500 ppm  ZnO và 100 ppm ZnO vào khẩu phần của heo con vừa cai sữa. Kết quả là số lượng các vi khuẩn có lợi như nhóm Lactobacilli bị sụt giảm đáng kể trong khi số lượng cầu khuẩn gây bệnh đường ruột tăng cao trên nhóm heo được bổ sung kẽm liều cao (2.500 ppm) (Hình 1). Một thí nghiệm khác cũng được thực hiện tại Đan Mạch để đánh giá sự ảnh hưởng của việc bổ sung 3.000 ppm ZnO vào khẩu phần của heo con trong 2 và 4 tuần sau khi cai sữa. Trên nhóm những heo con ăn kẽm liên tục trong 4 tuần đã xảy ra một ổ dịch tiêu chảy do E.coli. Riêng nhóm heo con chỉ ăn kẽm trong 2 tuần thì không xảy ra tình trạng này. Kết quả này cho thấy rằng việc bổ sung ZnO với hàm lượng cao trong thời gian dài có thể liên quan đến sự bùng phát dịch tiêu chảy sau khi ngừng sử dụng. Nguyên nhân được dự đoán là do quá nhiều ion Zn++ được đưa vào đường tiêu hóa. Các ion kẽm dư thừa không những ức chế vi khuẩn có hại như E.coli, mà còn ức chế cả vi khuẩn có lợi. Sau khi ngưng sử dụng, hệ vi sinh vật không hồi phục kịp ở trạng thái cân bằng, dẫn đến dịch bệnh bùng phát. Từ các luận điểm này, việc đưa vào lượng ZnO hữu hiệu dưới dạng bào chế đặc biệt sao cho vừa phòng ngừa được tiêu chảy mà vẫn bảo toàn được hệ vi sinh vật đường ruột ở mức tối đa là một đòi hỏi cấp thiết của các chuyên gia công thức thức ăn heo con.
      
SHIELD ZN - sản phẩm do công ty CTC Bio (Hàn Quốc) đang được công ty CTCBIO Việt Nam phân phối tại thị trường Việt Nam - là dạng kẽm oxit vô cơ vi bọc, chứa 102g ZnO (hay 81g Zn) trong 1kg sản phẩm. Các thử nghiệm được thực hiện tại Mỹ, Úc, Trung Quốc, Hàn Quốc đều cho thấy Shield Zn với lớp vỏ ngoài được vi bọc sẽ giải phóng ZnO hiệu quả hơn trong đường ruột mà không bị thất thoát ở các vị trí khác. Nồng độ 100ppm của ZnO trong Shield Zn vừa có tác dụng ngăn cản sự gắn kết của E.coli lên thành ruột, vừa có tác dụng bảo toàn khả năng hoạt động của các vi khuẩn có lợi, từ đó làm giảm các tác động ngoại ý do sử dụng kẽm oxit liều cao, giúp phòng ngừa hiệu quả bệnh tiêu chảy trên heo con.
- Zn++ có ái lực gắn kết vượt trội đối với thụ thể bám của E.coli/ Salmonella, có tác dụng ngăn cản các vi khuẩn này bám vào thành ruột. Shield Zn cung cấp lượng Zn++ hữu hiệu này.
- Các ion Zn++ dư thừa (ví dụ liều 3.000ppm), sau đó sẽ gắn kết với cả nhóm vi khuẩn có lợi như Lactobacilli, làm giảm số lượng của nhóm này.
Một thí nghiệm gần đây nhất vào tháng 3 năm 2010 đã được tiến hành ở Úc nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung kẽm oxit hàm lượng thấp (Shield Zn) lên tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy và các chỉ tiêu sản xuất khác (lượng ăn vào, tăng trọng hàng ngày, chỉ số chuyển hóa thức ăn, nồng độ kẽm trong huyết tương cũng như lượng kẽm được thải ra ngoài theo phân). Các kết quả thu được trong thí nghiệm này đã chứng minh rằng so với hàm lượng 3.000 ppm ZnO thì  hàm lượng 100 ppm ZnO vi bọc trong Shield Zn giúp ngăn ngừa tốt hơn tình trạng tiêu chảy trên heo sau cai sữa (bao gồm cả heo bị gây nhiễm bởi E.coli độc lực cao cũng như heo không bị gây nhiễm).     
                    
Ngoài ra, việc bổ sung 100 ppm ZnO vi bọc cũng cho hệ số chuyển hóa thức ăn tốt hơn so với sử dụng ZnO 3.000 ppm. Sự khác biệt này rất rõ rệt trên nhóm heo gây nhiễm với E.coli (P < 0,1). Như vậy, có thể kết luận rằng ZnO vi bọc sẽ mang lại hiệu quả rất khả quan đối với các hệ thống nuôi heo công nghiệp, nơi luôn luôn có mặt các vi khuẩn gây bệnh. Hơn cả mong đợi, hệ số chuyển hóa thức ăn dược cải thiện đáng kể trên nhóm bị gây nhiễm.
Từ các dữ liệu thu được từ thí nghiệm này, có thể kết luận rằng sản phẩm Shield Zn làm giảm một cách có ý nghĩa tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy trên heo con sau cai sữa, cải thiện FCR, đồng thời làm giảm tối đa lượng kẽm thải ra ngoài qua phân, là sản phẩm “XANH” thân thiện với môi trường.

SỬ DỤNG ANIPIRIN TRONG ĐẠI DỊCH PRRS/ ANIPIRIN in PRRS outbreak

SỬ DỤNG ANIPIRIN TRONG ĐẠI DỊCH PRRS
Sốt - Cơ chế và đặc điểm Sốt là trạng thái tăng thân nhiệt trên mức bình thường của cơ thể do trung tâm điều hòa nhiệt bị rối loạn bởi các tác nhân gây bệnh. Sốt có thể được gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau như do nhiễm khuẩn (vi khuẩn, virus, ký sinh trùng...) hay do các tác nhân khác như protid lạ, muối, thuốc, thần kinh...
Khi cơ thể bị xâm nhập bởi vật lạ (virus hay vi khuẩn), chúng sẽ tiết ra các độc tố. Theo phản ứng tự nhiên, cơ thể sẽ sản xuất ra các hóa chất để chống lại vật lạ này, từ đó tạo nên phản ứng sốt. Do đó, sốt là phản ứng đầu tiên hoạt hóa quá trình miễn dịch của cơ thể nhằm cố gắng để trung hòa một vi khuẩn hoặc virus lây nhiễm.


Sơ đồ cơ chế gây sốt



Khi cơ thể bị nhiễm khuẩn, hệ miễn dịch thông báo về trung tâm điều nhiệt ở não và tuyến dưới đồi, tuyến dưới đồi sẽ kích thích tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận kích thích các cơ quan, các cơ bắp tăng cường vận động làm tăng hoạt động trao đổi chất trong cơ thể làm tăng thân nhiệt. Đồng thời trung tâm cũng kích thích hệ thần kinh giao cảm tiết acetyl cholin gây ức chế tuyến mồ hôi, từ đó làm cơ thể giảm thải nhiệt. Khi lượng nhiệt sinh ra lớn hơn lượng nhiệt thải ra thì thân nhiệt tăng (sốt).

Sốt là một phản ứng bảo vệ cơ thể vì khi sốt làm tăng số lượng bạch cầu, tăng khả năng thực bào của bạch cầu, tăng sinh kháng thể và bổ thể, tăng chuyển hóa năng lượng ở gan, tăng cường hàng rào bảo vệ của gan, tăng tổng hợp đạm, tổng hợp urê…


Nhiệt độ cao do sốt còn có tác dụng ức chế sự sinh sản của một số virus (cúm, bại liệt). Sốt làm tăng nội tiết tố có tác dụng chống viêm và chống dị ứng, tăng khả năng phân hủy vi khuẩn, tăng các chức năng sinh lý…


Tuy nhiên, nếu sốt cao và kéo dài hoặc sốt ở những cơ thể suy yếu sẽ dẫn đến các tác hại nghiêm trọng như rối loạn chuyển hóa, rối loạn các chức năng của các cơ quan, cạn kiệt dự trữ, gây nhiều hậu quả xấu như suy kiệt, nhiễm độc thần kinh, suy tim và co giật. Điều xấu nhất có thể xảy ra là tử vong. Như vậy, sốt cần được theo dõi chặt chẽ và khi cần, phải được can thiệp bằng thuốc.


PRRS và sốt cao


Bệnh tai xanh hiện đang nổ ra thành đại dịch và lan tràn trên khắp cả nước gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi heo nước ta, đặc biệt gây tổn thất nặng nề cho người chăn nuôi. Bệnh xảy ra nhanh với biểu hiện heo sốt cao, bỏ ăn lan rộng trên toàn đàn và chết đột ngột sau 1-2 ngày.


Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở heo (Porcine Reproductive and Respiratory Syndrome) là một bệnh do virus gây ra, gây thiệt hại lớn về kinh tế và được phát hiện tại Mỹ vào năm 1987. Vào thời điểm đó, phân lập được virus nhưng không có độc tính và do chưa xác định được tên bệnh nên gọi là "bệnh bí hiểm" hay bệnh "Tai xanh". Năm 1992, Tổ chức thú Y thế giới thống nhất tên gọi của bệnh là "Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp trên heo".


Ở Việt Nam, bệnh được phát hiện vào năm 1997 trên đàn heo nhập từ Mỹ. Nhưng đến năm 2007, bệnh lần đầu tiên nổ ra thành dịch ở tỉnh Hải Dương và từ đó đến nay liên tục xảy ra làm chết hàng trăm ngàn con heo, gây tổn thất hàng tỉ đồng.


Bệnh tai xanh do virus Nidovirales, họ Arteviridae gây ra. PRRS virus thuộc nhóm RNA virus (RNA mạch đơn) có 2 typ chính: typ I gồm các virus Châu Âu và typ 2 gồm các virus Bắc Mỹ.


Cơ chế gây bệnh: virus PRRS tấn công hệ thống đại thực bào (đặc biệt đại thực bào ở phổi), phá hủy và giết chết đại thực bào (40%) làm suy giảm hệ miễn dịch của heo, tạo cơ hội cho các bệnh truyền nhiễm như: Dịch tả, Tụ huyết trùng, Đóng dấu, Phó thương hàn, Suyễn, Liên cầu khuẩn... kế phát. Các bệnh kế phát là nguyên nhân chủ yếu gây chết ở những heo mắc tai xanh.


Heo mắc bệnh thường có các biểu hiện: Sốt 40-410C, bỏ ăn, ủ rũ mệt mỏi, ho, khó thở, da ban đỏ chuyển dần sang tím tái, một số heo có biểu hiện xanh tím ở tai. Heo nái thường sẩy thai vào giai đoạn cuối, thai chết lưu, phối giống khó thụ thai, vô sinh... Heo con sinh ra bị yếu, ho 1 ngày tuổi (đây là dấu hiệu đặc trưng). Heo đực giống mệt mỏi, giảm tính hăng, số lượng và chất lượng tinh dịch giảm. Heo con theo mẹ sốt, ho, tiêu chảy và chết hàng loạt v.v...


Heo bị nhiễm PRRS chết chủ yếu không phải vì PRRS mà nguyên nhân chính là phụ nhiễm các vi khuẩn kế phát và sốt là triệu chứng điển hình. Ở heo, sốt thường gây hậu quả rất nghiêm trọng và có thể chết nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời. Sốc nhiệt trên heo gây ảnh hưởng nghiêm trọng vì khả năng thải nhiệt của heo kém do những nguyên nhân sau: heo có thể tích phổi nhỏ hơn so với trọng lượng cơ thể, tuyến mồ hôi kém phát triển và lớp mỡ dưới da dày. Do đó, biện pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại do PRRS là dùng thuốc hạ sốt nhanh chóng, an toàn và hiệu quả, tăng sức đề kháng cho đàn heo đồng thời dùng kháng sinh phổ rộng để ngừa phụ nhiễm.


Anipirin – kiểm soát sốt hiệu quả


Để giúp giảm thiểu thiệt hại do sốc nhiệt, đặc biệt cho các trại nhiễm PRRS, công ty CTCBIO Inc., - Hàn Quốc đã nghiên cứu và phát triển sản phẩm Anipirin với thành phần là aspirin đậm đặc, vitamin C và glucose dùng trộn vào thức ăn. 

Tác dụng của Aspirin


Tác dụng hạ sốt: aspirin ức chế prostaglandin synthetase làm giảm tổng hợp PG E1, E2 từ đó ức chế quá trình sinh nhiệt, tăng cường quá trình thải nhiệt và lặp lại cân bằng cho trung tâm điều nhiệt.


Tác dụng giảm đau: aspirin giúp giảm đau thông qua cơ chế làm giảm tổng hợp PGF2, giảm tính cảm thụ của dây thần kinh cảm giác với các chất gây đau như: serotonin, brandykinin.


Tác dụng chống viêm: ức chế enzyme cyclooxygenase, ngăn cản sự tổng hợp prostaglandin, là chất trung gian hóa học gây viêm, do đó làm giảm quá trình viêm.


Ngoài ra, aspirin còn đối kháng với hệ enzyme phân hủy protein, ngăn cản quá trình biến đổi protein làm bền vững màng lysosom và đối kháng tác dụng các chất trung gian hóa học như bradykinin, histamin, serotonin, ức chế hóa hướng động bạch cầu, ức chế sự di chuyển của bạch cầu tới ổ viêm.


Tác dụng của vitamin C


Vitamin C tham gia tạo collagen - một protein rất quan trọng trong việc liên kết các cấu trúc cơ thể với nhau (mô liên kết, sụn khớp, dây chằng...).



Vitamin C tăng cường hệ thống miễn dịch bằng cách tăng cường chức năng và hoạt động của các bạch cầu, tăng nồng độ và đáp ứng kháng thể.


Trong quá trình stress, vitamin C bị gia tăng bài tiết đáng kể qua đường tiết niệu nên làm tăng nhu cầu vitamin C.


Vitamin C chống oxy hóa bằng cách trung hòa các gốc tự do sản sinh ra từ phản ứng chuyển hóa giúp bảo vệ tính toàn vẹn của màng tế bào.


Với các tính năng đã nêu như trên, Aspirin có tác dụng giảm đau, hạ sốt, kháng viêm một cách nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Khi kết hợp với vitamin C có khả năng tăng sức đề kháng và phòng ngừa stress đồng thời glucose sẽ cung cấp thêm năng lượng cho heo. Do đó, sản phẩm Anipirin là sự lựa chọn hợp lý và đúng đắn cho trại đang trong vùng nguy cơ bị dịch PRRS. Anipirin làm giảm tỉ lệ chết do sốt trong bệnh PRRS đến 50%. Ngoài ra, Anipirin có thể trộn vào thức ăn cho heo ăn trong 2-3 ngày sau khi tiêm vaccine, hoặc trộn cho heo ăn vào giai đoạn thời tiết giao mùa hay khi chuyển chuồng giúp chống stress và tăng sức đề kháng cho đàn heo.


Sử dụng Anipirin - bảo vệ đàn heo, giảm thiểu thiệt hại trong đại dịch PRRS.