Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Phương pháp quản lý giúp giảm số ngày không sinh sản trên nái

Phương pháp quản lý giúp giảm số ngày không sinh sản trên nái

Đăng ngày: 29/10/2014
​  
​   Để giảm chi phí sản xuất trong trại nuôi thịthương phẩm cần phảigiảm chi phí cám, chiphí lao động, chi phí sản xuất heo con... Nâng cao năng suấtsinh sản nái sẽ giúp giảm chiphí sản xuất heo con. Một trongcác biện pháp có hiệu quả đó làgiảm số ngày nái không sinh sảnđể tăng số heo con đẻ ra và tăngchỉ số PSY. Có rất nhiều yếu tốảnh hưởng đến khả năng sình sản của nái, đó lả tinh trạng lên giống, số trứng rựng, tỷ lệ thụthai, tỷ lệ sống thai nhi, tỷ lệ đẻ, số heo con sinh ra, tỷ lệ chuyển thịt, số ngày lên giống lại, khảnăng thụ thai của heo, trang thiết bị chuồng trại, tay nghề người quản lý...
   Để giảm số ngày heo không sinh sản cần hỗ trợ heo lên giống, tăng tỷ lệ thụ thai, giảm số heo lên giống lại, chẩn đoán mang thai chính xác nhằm rút ngắn thời gian heo không sinh sản. Ngoài ra, cần phải tăng số heo con cai sữa trên nái nhằm tăng chỉ số PSY để có thể giảm chi phí sản xuất heo con.
   1. Mối quan hệ giữa số lứa đẻ/năm của nái và số con cai sữa/nái/năm (PSY)
Số ngày nái không sinh sản là thời gian nuôi nái không nhằm mục đích sản xuất heo con. Thời gian không sinh sản là khoảng thời gian nái lên giống lại, thời gian từ khi sẩy thai đến phối lại, đa số khoảng thời gian này liên quan tới vấn đề rối toạn sinh sản trên heo.
   Thời gian heo sinh sản là khoảng thời gian heo mang thai (114-115 ngày), thời gian nuôi con (21-28 ngày), thời gian lên giống lại sau cai sữa (ở những nái bình thường là từ 5-7 ngày). Như vậy, thời gian nái sinh sản khoảng từ 140-150 ngày.
   Nái sau khi đẻ, theo đặc tính sinh lý, trong thời gian nuôi con nái sẽ không lên giống. Nếu nái nằm trong tình trạng sức khỏe bình thường, sau khi cai sữa trong vồng 5-7 ngày nái sẽ lên giống lại và được đưa vào phối. Nếu heo theo được chu kỳ như vậy thì năng suất sẽ đạt gần mức tối đa. Với thời gian sinh sản của nái đạt 140-150 ngày thì số lứa đẻ trong năm sẽ đạt khoảng 2,6-2,43 lứa.
   Hiện nay, số lứa đẻ/nái/năm của mỗi trại có sự khác biệt lớn, nhưng nếu ta cải thiện được chỉ số này khoảng 0,1 lứa thì PSY trong trại sẽ gia tăng Sự thật có nhiều trại số lứa đẻ/nái/năm dưới mức 2. Nếu sốheo con cai sữa được giữ ở mức ổn định thì khi tăng số lứa đẻ/năm, PSY của trại sẽ tăng tương ứng, giúp giảm chi phí sản xuất heo con.
   Để nâng cao năng suất sinh sản, số nái lên giống lại sau cai sữa trong vòng 1 tuần phải đạt 80-90%. Cẩn quản lý sao cho thời gian nuôi con nái không có dấu hiệu lên giống. Trong thời gian mang thai giảm tối đa các nguyên nhân gây sẩy thai. Khi quản lý náitránh để xảy ra đào thải nái do chân yếu, còi cọc, bệnh, nhằm tăng tỷ lệ đẻ.
   2.Các biện pháp quản lý nhằm giảm số ngày heo không sinh sản
   Trong thời gian nái nuôi con cần tránh cho heo giảm trọng lượng quá nhanh. Nái phải sản xuất sữa để nuôi nhiều con nên chúng có khuynh hướng giảm trọng lượng rất nhanh. Trong thời gian nuôi con trọng lượng nái giảm ít hơn 20% là phù hợp. Ví dụ, nái hậu bị có trọng lượng trước khi đẻ là 200kg thì khi cai sữa còn 160kg là phù hợp. Trọng lượng của nái rạ trước khi đẻ là 220kg, khi cai sữa nên duy trì trọng lượng khoảng 176kg là phù hợp. Nếu trọng lượng nái giảm 30 – 40 % thì sau cai sữa nái sẽ thiếu dưỡng chất, việc phục hồi thể lực rất khó khăn, khiến nái không lên giống hoặc lên giống yếu, không rõ ràng. Để tránh việc nái giảm trọng lượng quá nhiều, trong thời gian nuôi con cần tăng số lần cho ăn một ngày lên 4 – 5 lần nhằm đảm bảo đầy đủ dưỡng chất cho heo.
   Khi thấy heo có dấu hiệu ăn ít, cần bổ sung các chất dinh dưỡng, chất béo vào cám nhằm tránh cho nái giảm quá mức lượng mỡ trong cơ thể. Ngoài ra, cần cung cấp đủ nước cho nái, nếu lượng nước từ núm uống không đủ, có thể cấp nước bổ sung để trong thời gian ngắn heo vẫn có thể uống được nhiều nước.
   Để tránh heo mất quá nhiều mỡ trong cơ thể, định kỳ 2 ngày cần kiểm tra điểm thể trạng (8CS) của heo, tăng lượng cám sao cho điểm BCS không ở mức dưới 2 hay độ dày mỡ lưng dưới 10~l2mm,
   Heo hậu bị không cho phối quá sớm. Hậu bị chưa phát triển hoàn toàn nếu đưa vào phối sớm thì trong thời gian nuôi con nái sẽ giảm trọng lượng quá nhiều, khiến cơ thể ngừng phát triển, thể lực bị haomòn heo sẽ chậm lên giống lại.
   Nái hậu bị cần phải đạt 230-240 ngày tuổi, trọng iượng 120~130kg, độ dày mỡ lưng P2 phải trên 18mm mới được đưa vào phối để không ảnh hưởng tới năng suất lứa tiếp theo. Đặc biệt, với các giống heo hướng nạc, với độ dày mỡ lưng mỏng, thì hậu bị phải đạt trên 220 ngày tuổi, trọng lượng trên 125kg, độ dày mỡ lưng P2 phải đạt từ 16~22mm mới được đưa vào phối. Tuy nhiên, nếu để hậu bị trên 13 tháng (395 ngày tuổi) mới đưa vào phối thì cũng không tốt. Nếu trong thời kì mang thai heo ăn quá nhiều, chúng sẽ bị béo phì, dẫn đến tỷ lệ sẩy thai, đẻ non, co giật cao và heo lên giống lại trễ.
   Tỷ lệ nái hậu bị trong bầy sinh sản phải dưới 40%. Vì số ngày lên giống lại sau cai sữa của nái khác nhau theo từng lứa đẻ. Thông thường, nái hậu bị lên giống lại sau cai sữa chậm hơn so với nái rạ. Kể từ lứa hai trở đi nái mới lên giống lại bình thường. Nếu thay hết nái, số lượng hậu bị sẽ rất nhiều, dẫn đến tình trạng lên giống lại sau cai sữa không ổn định, khiến số heo con sinh ra bị giảm sút. Chính vì thế, cần ổn định cơ cấu số lứa đẻ trong đàn sinh sản.
   Phải tiến hành phối nái vào thời điểm chính xác. Để nâng cao tỷ lệ thụ thai thì phải phối nái theo nguyên tắc, phối lần 1 sau khi chịu đực 10-12 tiếng và 12 tiếng sau khi phối lại lần hai. Người quản lý cần phải thuần thục trong việc xác định heo lên giống. Một ngày vào buối sáng và tối cho đực tiếp xúc với nái 2 lần, để kiểm tra sự lên giống của nái.
   Nếu trong thời gian 3-5 ngày liên tục cho tiếp xúc với đực, vào buổi sáng nái không chịu đực, nhưng buổi tối tiếp xúc thì chịu đực, thì có thể phán đoán vào khoảng 12 giờ trưa heo đã chịu đực. Nên phối ngay buổi tối và sáng hôm sau phối lần 2.
   Ngược lại, nếu vào buổi tối kiểm tra heo không chịu đực, mà buổi sáng hôm sau nái chịu đực, thì có thể phán đoán heo chịu đực khoảng 12 giờ đêm. Ta cho phối liền vào buổi sáng và buổi tối phối lần 2.
   Cần phải quản lý kỹ heo đực. Trại phải chuẩn bị đủ số đực để kiểm tra nái lên giống và phối heo. Để tránh khai thác đực quá mức, tỷ lệ đực và cái cần phải theo tỷ lệ 1 đực: 20 – 30 nái.
   Các biện pháp giúp tăng tỷ lệ đậu thai như phối hai liều, phối từ tinh nhiểu đực khác nhau.
   Khi phối phải tạo cho nái có cảm giác an toàn. Số lượng trứng rụng của mỗi chu kỳ lên giống nái tơ tà 12 – 18 (bình quân 14 trứng), nái rạ là 16 – 28 (bình quân 20 trứng). Tuy nhiên, trên thực tế thì số heo con nái tơ đẻ ra ỉhường dưới 10 và nái rạ khoảng từ 12-14 con. Khoảng từ 50-65% số trứng rụng sẽ không được thụ thai. Trứng sau khi thụ tinh thường có thể bị chết trong vòng 3 tuần đầu mang thai. Chính vì vậy, trong thời gian này nên tạo cảm giác thật an toàn cho nái, tránh để nái stress do nhiệt độ chênh lệch ngày và đêm.
   Nên cai sữa nái vào một ngày nhất định trong tuần. Để nâng cao hiệu suất quẫn lý, các trại thường áp dụng việc quản lý theo tuần. Điều căn bản của lịch quản lý theo tuần là không để việc phối hay đẻ heo rơi nhiều vào ngày thứ bảy và chủ nhật. Theo đó, heo thường được cai sữa vào thứ năm, sau cai sữa 4 – 5 ngày thì số heo đưa vào phối sẽ rơi vào ngày thứ ba. Và khi heo đẻ 16 tuần + 2 ngày sẽ rơi vào ngày thứ năm. Tuy thời gian nuôi con có đôi chút khác biệt nhưng nếu cai sữa vào ngày thứ năm ta sẽ giúp heo lên giống đồng loạt vào một khoảng thời gian xác định.
   Hỗ trợ nái trong việc lên giống lại sau cai sữa. Dưới đây là một số biện pháp giúp hỗ trợ nái lên giống lại sau cai sữa:
   Điều chỉnh lượng cám cho ăn. Giảm phân nửa lượng cám so với thông thường trong vòng hai ngày sau cai sữa, sau đó cho ăn tự do hoặc cắt cám trong vòng một ngày để hỗ trợ heo lên giống.
   Nuôi nhốt nái chung với những nái khác. Di chuyển nái qua chuồng khác, thay đổi môi trường nuôi quen thuộc của nái, cho nái ra vận động nhằm kích thích nái lên giống, lùa nái lên xe dị chuyển khoảng 1~2km để tạo stress lên giống, cho heo nái (hậu bị) tiếp xúc với đực để kích ỉhích lên giống, cho nái sau cai sữa tiếp xúc với mùi heo đực (kích thích khứu giác), cho nghe tiếng heo đực {kích thích thính giác), cho nhìn thấy heo đực (kích thích thị giác), tiếp xúc với heo đực (kích thích xúc giác)...
   So với các phương pháp khác, phương pháp chotiếp xúc với đực thường mang lại hiệu quảcao nhất. Để việc tiếp xúc với đực mang lại hiệu quả cao ta cần chú ý các điểm sau:
   -  Khi tiếp xúc với đực, hậu bị phải phát triển thuần thục (160 – 165  ngày tuổi). Khi cho náí tiếp xúc với đực, phải đưa đực vào chuồng nái thì hiệu quả mới cao. Khi cho đực tiếp xúcvới nái, cần cho hai đực luân phiên nhau tiếp xúc theo ngày thì hiệu quả hỗ trợ lên giống sẽ cao.
   -  Thời gian hậu bị tiếp xúc với đực kéo dài khoảng 10 ngày, mỗi ngày 30 phút là phù hợp.
   -  Đực tiếp xúc với nái nên trên 1 tuổi để các chức năng đều hoàn thiện thì hiệu quả mới cao.
   Nái sau khi cai sữa được cho tiếp xúc với đực nhằm kiểm tra và hỗ trợ nái lên giống. Vảo ngày cai sữa và ngày hôm sau nên giảm lượng cám cho nái ăn để phòng ngùa viêm vú. Nái cho tiếp xúc với đực khoảng 5 ngày, mỗi ngày khoảng 20 phút. Kiểm tra lên giống được thực hiện vào ngày thứ tư sau cai sữa, nái rạ khoảng 5-10 phút, hậu bị khoảng 10 – 20 phút. Những cá thể lên giống cần được đánh dấu để đưa vào phối. Trong vòng 10 ngày sau cai sữa, nếu số nái rạ lên giống lại được 90%, nái tơ được 85% thì trại mới có thể đạt được năng suất cao trong sinh sản. Ngoài ra, đối với những nái đã phối, ở chu kỳ tiếp theo vẫn cho tiếp xúc với đực để kiểm tra tình trạng mang thai.   
LÊ NGUYỄN NGỌC HẠNH
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét