Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

RHINANVAC® CERDOS VẮC-XIN VÔ HOẠT ĐA GIÁ PHÒNG BỆNH PHỨC HỢP HÔ HẤP TRÊN HEO

RHINANVAC® CERDOS

VẮC-XIN VÔ HOẠT ĐA GIÁ PHÒNG BỆNH PHỨC HỢP HÔ HẤP TRÊN HEO

MÔ TẢ - THÀNH PHẦN 
-     RHINANVAC® CERDOS là vắc-xin vô hoạt, đa giá có tới 6 kháng nguyên tạo ra miễn dịch chủ động phòng chống 4 bệnh thường gặp, chủ yếu gây nên hội chứng hô hấp phức hợp PRDC trên heo.
-     Đặc biệt, có tới 2 chủng huyết thanh Pasteurella týp A & D và một giải độc tố giúp hạn chế tối đa nhiễm trùng máu do độc tố của vi khuẩn gây ra tụ huyết trùng cho heo con, cùng kết hợp với kháng nguyên B.bronchiseptica, tạo nên sự bảo hộ hoàn hảo, phòng bệnh viêm teo xoang mũi, giúp cho heo con bước đầu khỏe mạnh và tạo đà cho sự phát triển, đàn heo thịt tăng trọng ổn định sau này.
-     Với hàm lượng kháng nguyên M.hyopneumoniae cao hơn rất nhiều so với tất cả các loại vắc-xin ngừa Mycoplasma khác hiện có mặt trên thị trường, tạo miễn dịch nhanh, mạnh và kéo dài, bảo hộ cho đàn heo khỏe mạnh đến khi xuất thịt.
-     Kháng nguyên H.parasuis kết hợp với các kháng nguyên khác trong thành phần vắc-xin RHINANVAC®CERDOS hạn chế tối đa heo con sau cai sữa bị sưng khớp, đau khớp và bị viêm nhiễm các màng thanh mạc bên trong nội tạng như viêm màng phổi, màng tim,…
-     Chất bổ trợ Al(OH)3 giúp thú đáp ứng miễn dịch nhanh, mạnh và kéo dài mà không gây tổn thương mô ở nơi tiêm. Áp lực tiêm nhẹ nhàng ít gây sốc, giúp cho heo con ít bị phản ứng quá mẫn sau chủng ngừa.
-     Chất bổ trợ này cũng giúp heo con ít bị tác động bởi hội chứng còi cọc sau cai sữa. Nhờ có tới 6 kháng nguyên phòng được hầu hết các bệnh phức hợp trên đường hô hấp (PRDC), heo con có kháng thể bảo hộ sớm và đầy đủ giúp chúng khỏe mạnh, ăn uống tốt, hệ thống đáp ứng miễn dịch phát triển tối đa, giảm sự ảnh hưởng của dịch bệnh PRRS trong khu vực, đồng thời dễ dàng vượt qua dịch bệnh này.
THÀNH PHẦN: Trong 1ml
Bordetella bronchiseptica S-4212……………………...........> 2,50 x 1010 CFUPasteurella haemolytica NCTC 9380…………………...........> 1.65 x 109 CFU
Pasteurella multocida, type D P-934…………………..........>2,50 x 1010 CFU
Giải độc tố của Pasteurella multocida …………...….........................> 1 mg
Haemophilus parasuis............................……………....…> 1.65 x 10 CFU
Mycoplasma hyopneumoniae VMRI-11……………............> 2,50 x 10 CFU
Chất bổ trợ vừa đủ:...............................………….............................1 ml
LIỀU DÙNG VÀ CÁCH SỬ DỤNG
Cách dùng: tiêm bắp. Làm ấm vắc-xin tới khoảng 25oC và lắc nhẹ vài lần lọ vắc xin trước khi sử dụng.
Heo con sinh ra từ heo nái chưa chủng vắc-xin: Tiêm 2 lần
Lần 1: 1ml từ 10 - 14 ngày tuổi trở lên.
Lần 2: 2ml cách 2 - 3 tuần sau lần 1.
Heo con sinh ra từ nái đã chủng vắc-xin: Tiêm 2 lầnLần 1: 2ml từ 25 - 28 ngày tuổi
Lần 2: 2ml cách 2 - 3 tuần sau lần 1
Heo hậu bị: 2 lần, mỗi lần 2ml, cách nhau 2 - 3 tuần.
Nái sinh sản: Tái chủng 1 mũi trước sinh 2 - 6 tuần.
Nọc: 2 lần, mỗi lần 2ml, cách nhau 2 - 3 tuần. Tái chủng sau mỗi 6 tháng.
Chú ý: dùng theo chỉ dẫn của thú y. Lắc kỹ trước khi sử dụng. Bảo quản ở nhiệt độ từ 2 - 8ºC. Không được để đông đá. Dùng hết sau khi đã mở nắp.
BẢO QUẢN
Bảo quản ở nhiệt độ 2 – 7C, tránh ánh sáng.
Không để đông đá.
QUY CÁCH: Lọ 50ml, 100ml và 250ml.
SĐK: SYVAS-14
Đọc kỹ hướng dẫn trước khi sử dụng.

Donoban 10

Donoban 10
  • Phòng hữu hiệu 6 bệnh hô hấp trên heo như: bệnh viêm phổi địa phương, viêm phổi - màng phổi, viêm màng não do Streptococcus type 2, viêm phổi đa thanh dịch (Glasser), viêm teo mũi truyền nhiễm, tụ huyết trùng.
  • Giảm chi phí thức ăn, rút ngắn số ngày xuất chuồng, tăng năng suất đàn heo, đảm bảo an toàn (sử dụng tốt trên nái mang thai).
Donoban 10 chứa 15 loại kháng nguyên hô hấp  trên heo.
Chất bổ trợ (nguồn gốc từ Pháp) giúp giảm tối đa các phản ứng phụ và phát huy hiệu quả của vaccine.
Donoban 10 là vaccine đa giá phòng hiệu quả bệnh hô hấp phức hợp và các bệnh thường phụ nhiễm với bệnh tai xanh. Đồng thời Donoban 10 giúp tăng năng suất đàn heo. 

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG
Tiêm bắp cho
- Nái mang thai:
  • Liều đầu tiên : tiêm 2ml  vào tuần thứ 5-6 trước khi sinh
  • Liều tăng cường : tiêm 2ml  vào tuần thứ 2-3 trước khi sinh
  • Các lứa đẻ kế tiếp : tiêm 2ml  vào tuần thứ 2-3 trước khi sinh

      - Heo con:
      • Liều đầu tiên : tiêm 1.5ml  vào lúc 3-4 tuần tuổi
      • Liều tăng cường : tiêm 1.5ml  vào lúc 5-6 tuần tuổi

      BỆNH VIÊM PHỔI PHỨC HỢP TRÊN HEO và VACCINE RES-VAC

      BỆNH VIÊM PHỔI PHỨC HỢP TRÊN HEO

      và VACCINE RES-VAC

                                                            ● Tiến sĩ Nguyễn Như Pho
      Viêm phổi phức hợp là thể viêm phổi cấp tính, thường gây chết trên heo với các đặc điểm: heo đột ngột sốt cao, rất khó thở. Bệnh thường xảy ra trên heo sau cai sữa, heo nuôi thịt hoặc xảy ra trên cả heo nái, heo nọc. Heo mắc bệnh có thể chết trong vòng 24 giờ kể từ lúc phát bệnh hoặc chết sau đó vài ngày.
      1. Nguyên nhân gây bệnh:
      Bệnh xảy ra do hệ thống phòng vệ đường hô hấp bị tổn thương do nhiễm trùng nguyên phát kết hợp với điều kiện nuôi dưỡng kém gây mất khả năng đề kháng từ đó đường hô hấp trở nên mẫn cảm với các vi khuẩn gây viêm phổi.
      1.1 Các hệ thống phòng vệ đường hô hấp bị tổn thương: Trên đường hô hấp có 3 hệ thống phòng vệ chính:
      - Xoang mũi: xoang mũi có vai trò sưởi ấm không khí lạnh và lọc các loại bụi có kích cỡ lớn, giữ cho phổi luôn ấm và trong sạch. Heo bị nhiễm bệnh viêm teo mũi do Bordetella bronchiseptica và Pasteurelle multocida type D, độc tố của 2 loại vi khuẩn này làm teo sụn xoang mũi dẫn đến xoang mũi bị hư (hình1), không còn khả năng sưởi ấm và lọc bụi trong không khí, khí lạnh và bụi vào thẳng trong phổi gây viêm mãn tính trên phổi từ đó phổi bị yếu dễ cảm nhiễm với các loại mầm bệnh khác.


      Hình 1: Xoang mũi bị hư trong bệnh viêm teo mũi truyền nhiễm do Bordetella bronchiseptica và Pasteurelle multocida type D
      - Hệ thống lông rung phế quản: có vai trò bắt và đẩy các hạt bụi có kích cỡ nhỏ ra khỏi đường hô hấp. Nhiễm Mycoplasma hyopneumoniae sẽ làm tê liệt và cụt dần các lông rung (hình 2), hậu quả bụi sẽ tồn đọng ngày càng nhiều trong phế quản, phế quản bị kích thích gây nên triệu chứng ho liên tục trên heo, phổi bị viêm mãn tính cũng là điều kiện để các loại mầm bệnh khác phát triển.

      Hình 2: lông rung phế quản bị cụt do Mycoplasma hyopneumoniae
      - Đại thực bào trong phế nang và các loại bạch cầu: trong phế nang chứa nhiều tế bào có khả năng diệt khuẩn bao gồm bạch cầu lympho, bạch cầu trung tính và đặc biệt là đại thực bào. Đại thực bào có khả năng tiêu diệt một lượng rất lớn các vi trùng xâm nhập vào đường hô hấp bao gồm vi trùng Pasteurella, Haemophillus, Actinobacillus…giúp phổi chống được sự nhiễm trùng. 

      Heo bị nhiễm bệnh tai xanh, virus PRRS tấn công làm phá vỡ toàn bộ các đại thực bào trong phế nang (hình 3), làm mất khả năng diệt khuẩn của phế nang, từ đo phổi rất nhạy cảm với vi khuẩn gây nhiễm trùng cấp tính.

      Hình 3: Đại thực bào phế nang bị phá hủy trong bệnh tai xanh
      Trường hợp heo nhiễm bệnh Circo. Virus Circo xâm nhập và gây viêm toàn bộ các hạch bạch huyết, nơi sản sinh các loại bạch cầu góp phần làm giảm khả năng diệt khuẩn của phổi, điều này giải thích viêm phổi là triệu chứng chính thường thấy trong bệnh Circo (hình 4).

      Hình 4: Viêm hạch bạch huyết trên heo trong bệnh do Circo virus
      1.2 Quản lý- nuôi dưỡng kém: bao gồm chuồng trại ẩm thấp do thường xuyên tắm và rửa chuồng hoặc do chuồng trại không thông thoáng, kém vệ sinh, tồn đọng các mùi hôi thối như NH3 , H2S. Các yếu tố trên góp phần làm suy yếu sức kháng bệnh đường hô hấp, từ đó tạo điều kiện thuận tiện cho các loại vi khuẩn phát triển gây bệnh.
      1.3 Các vi khuẩn gây viêm phổi cấp tính bao gồm: Pasteurella multocida type A, Haemophillus parasuis, Actinobacillus pleuropneumoniae. Các vi khuẩn này thường xuyên có mặt trong chuồng trại và trong vùng hầu họng của heo, khi sức đề kháng của đường ho hấp yếu đi, vi khuẩn sẽ xâm nhập xuống phổi và gây viêm cấp tính. Trong 3 loại vi khuẩn trên, nguy hiểm nhất là Actinobacillus pleuropneumoniae với ngoại độc tố gây tràn dịch phổi - màng phổi và gây xuất huyết cấp tính tại phổi. Đây là triệu chứng chính của bệnh viêm phổi thường đi kèm với bệnh tai xanh hay bệnh do Circo virus.
      2. Triệu chứng:
      Bệnh phát ra đột ngột với triệu chứng: sốt cao, rất khó thở do phổi bị xuất huyết và tràn dịch, hai tai lạnh và tím bầm, một vài trường hợp có thêm triệu chứng chảy máu mũi hoặc xuất huyết điểm trên da.
      3. Điều trị bệnh
      Do diễn biến bệnh rất nhanh, ngoài ra bệnh xảy ra do đồng thời nhiều loại vi khuẩn cùng tấn công phổi, do đó việc dùng kháng sinh điều trị ít mang lại kết quả tốt, một số heo hồi phục sau điều trị vẫn mang các di chứng trong phổi, từ đó thường ít ăn, chậm lớn.
      4. Phòng bệnh
      - Giữ ấm cho heo, tuyệt đối không tắm heo lúc sáng sớm, lúc trời lạnh, chỉ rửa chuồng ở khu vực có nhiều phân, nước tiểu, giữ khô phần chuồng còn lại.
      - Hiện nay phần lớn người chăn nuôi dùng kháng sinh trộn trong thức ăn để kiểm soát bệnh, các kháng sinh thường dùng là Chlortetracyclin, Tylosin, Lincomycin, Amoxicillin…Do dùng lâu ngày, các kháng sinh trên đây đã bị vi khuẩn đề kháng, rất nhiều trại trộn kháng sinh liên tục nhưng bệnh viêm phổi vẫn xảy ra. Biện pháp tốt nhất và kinh tế nhất là tiêm phòng vaccine đa giá chứa đầy đủ tất cả các kháng nguyên tương ứng với các bệnh viêm teo mũi truyền nhiễm, bệnh do Mycoplasma, viêm phổi do vi trùng Pasteurella, Haemophillus và Actinobacillus cho heo nái và heo con.

      Hình 5: Heo kho thở, sốt cao, chết trong vòng 1-3 ngày kể từ lúc phát bệnh
      5. Giới thiệu vaccine RES-VAC®
      RES-VAC® PHÒNG NGỪA HỘI CHỨNG HÔ HẤP PHỨC HỢP TRÊN HEO là vaccine đa giá, chứa 11 kháng nguyên bao gồm 7 kháng nguyên vi khuẩn và 4 kháng nguyên giải độc tố của các vi khuẩn gây viêm phổi phức hợp trên heo, giúp heo chủ động tạo ra nguồn kháng thể liên tục chống lại các vi trùng và độc tố của các vi trùng gây bệnh viêm teo mũi truyền nhiễm, bệnh viêm phổi do Mycoplasma, bệnh viêm phổi do vi trùng Pasteurella multocida type A, Bệnh viêm phổi - màng phổi do vi trùngActinobacillus pleuropneumoniae và bệnh viêm đa xoang khớp (Glasser's) doHaemophillus parasuis. Sản phẩm được đăng ký tại Văn phòng Sở hữu trí tuệ Hàn Quốc (Bằng sáng chế số 372278) RES-VAC®, được bình chọn là sản phẩm tốt nhất bởi các tạp chí chuyên ngành ở Seoul năm 2010

      Vaccine RES-VAC
      THÀNH PHẦN: Trong 1 liều vaccine (2ml) chứa:
      • Mycoplasma hyopneumoniae ............. 2,0 x 108 CCU
      • Bordetella brochiseptica ..................1,5 x 1010 CFU
      • Bordetella brochiseptica toxoid .................... 500µg
      • Pasteurella multocida type D........... 1,5 x 1010 CFU
      • Pasteurella multocida type D toxoid.............. 500µg
      • Pasteurella multocida type A .......... 1,5 x 1010 CFU
      • Haemophilus parasuis type 4............. 4,0 x 109 CFU
      • Haemophilus parasuis type 5 ............ 4,0 x 109 CFU
      • Actinobacillus pleuropneumoniae type 5.. 1,0 x 1010CFU
      • Actinobacillus pleuropneumoniae type 2.. 1,0 x 1010CFU
      • Actinobacillus pleuropneumoniae type 2,5 toxoid.. 10µg
      CÔNG DỤNG: Phòng ngừa bệnh viêm phổi phức hợp trên heo do vi khuẩn gây ra bao gồm:
      • Bệnh viêm phổi địa phương do Mycoplasma hyopneumoniae.
      • Bệnh viêm teo xoang mũi truyền nhiễm do Bordetella brochiseptica.
      • Bệnh tụ huyết trùng heo do Pasteurella multocida.
      • Bệnh Glasser's do Haemophilus parasuis.
      • Bệnh viêm phổi, viêm màng phổi do Actinobacillus pleuropneumoniae (APP).
      ƯU ĐIỂM CỦA RES-VAC
      • Chứa đầy đủ các kháng nguyên của các bệnh gây viêm phổi trên heo.
      • Chứa 4 kháng nguyên la giải độc tố, giúp tăng hiệu qua tối ưu cho các loại kháng thể.
      • Hàm lượng kháng thể đạt mức tối đa sau khi chủng ngừa.
      • Vaccin rất an toàn trên heo nái, heo con theo mẹ.
      CÁCH DÙNG
      • Heo nái: Tiêm bắp 2 lần.
        -  Lần thứ nhất: 2ml lúc 4 ~ 5 tuần trước khi đẻ.
        -  Lần thứ hai: 2ml lúc 2 ~ 3 tuần trước khi đẻ.
      • Heo nọc: Tiêm bắp 2ml, hai lần cách nhau 2 tuần.
        -  Tiêm lập lại mỗi 6 tháng kể từ lần tiêm thứ 2.
      • Heo con: Tiêm bắp 2 lần.
        -  Lần thứ nhất: 1,5ml lúc 2 ~ 4 tuần tuổi.
        -  Lần thứ hai: 1,5ml lúc 5 ~ 6 tuần tuổi.
      QUI CÁCH: 20ml/lo va 50ml/lọ.
      Nhà sản xuất: Komipharm International-Korea
        
      Vaccine PRO-VAC CIRCOMASTER

      PHÒNG HỘI CHỨNG CÒI CỌC, SUY GIẢM MIỄN DỊCH TRÊN HEO
      Sản phẩm số 1 tại Hàn Quốc, Sản phẩm đạt giải thưởng IR52 Jang Young-Shil
      Giải thưởng đóng góp vào sự đổi mới khoa học công nghe Hàn Quốc, do Hiệp hội KOITA và tạp chí
      Maeil Business trao tặng, được bộ Giáo dục, Khoa học và Kỹ thuật Hàn Quốc chứng nhận.

      THÀNH PHẦN:
       Trong 1ml vaccine chứa:
      Porcine Circo Virus type 2 protein antigen....... ....100 đơn vị
      Aluminium hydroxide gel......................................... 2.0mg
      CÔNG DỤNG: Vaccine tiểu phần tái tổ hợp dùng phòng các bệnh do Circovirus type 2 gây ra như:
      • Hội chứng còi cọc trên heo sau cai sữa, chậm tăng trọng trên heo thịt.
      • Viêm da, viêm thận trên heo thịt
      • Suy giảm miễn dịch làm cho bệnh kế phát như tai xanh – PRRS xảy ra nghiêm trọng hơn trong đàn heo.
      LIỀU LƯỢNG VA CÁCH DÙNG
      • Heo nái mang thai:
        -  Mới tiêm Vaccine Circo lần đầu: Tiêm bắp 2 lần, mỗi lần 2ml vào lúc 4~5 tuần va 2~3 tuần trước khi sinh.
        -  Tiêm lứa kế tiếp trở đi: Tiêm bắp 1 lần 2ml vào lúc 2~3 tuần trước khi sinh.
      • Heo con:
        -  Heo mẹ đã tiêm phòng: Tiêm bắp 1 lần 2ml lúc 4~5 tuần tuổi.
        -  Heo mẹ chưa tiêm phòng: Tiêm bắp 2 mỗi lần 1ml vào lúc 3~4 tuần và 5~6 tuần tuổi.
      QUI CÁCH: Lọ 20ml và 50ml
      Nhà sản xuất: Komipharm International-Korea

      Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2014

      VIÊM PHỔI TRÊN HEO VÀ PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ

      I, VIÊM PHỔI TRÊN HEO
      Có 1 số loại vi trùng gây viêm phổi:
      + Viêm teo mũi truyền nhiễm do bordetella
      + Viêm phổi địa phương do Mycoplasma
      + Viêm phổi do Pasteurella( tụ huyết trùng lợn )
      + Viêm phổi màng phổi do APP
      + Viêm phổi và viêm xoang do Haemophillus
      1, Viêm teo mũi truyền nhiễm
      + Do  bordetella (Gr -) gây ra
      + Tỷ lệ nhiễm bệnh rất cao
      + Vi khuẩn sống ở xoang mũi ,tiết độc tố ăn mòn xoang mũi
      + Mũi mất chức năng lọc bụi và sưởi ấm không khí.Sức kháng phổi yếu tạo điều kiện cho các vi khuẩn khác phát triển – viêm phổi
      + Độc tố vào máu,ức chế hocmon sinh trưởng làm heo chậm lớn
      2, Bệnh viêm phổi do Mycoplasma
      + Do Mycoplasma hyopneumoniae gây ra.
      + Bệnh truyền lây qua đường hô hấp. Vi khuẩn có sẵn trong đường hô hấp, khi gặp điều kiện bất lợi sẽ gây bệnh.
      + Đặc điểm của bệnh là heo ho khan kéo dài, nhất là sau khi vận động, bị rượt đuổi, ho vào ban đêm, lúc sáng sớm.
      + Heo giảm ăn, chậm lớn, sức kháng bệnh yếu. Vì thế rất dễ kết hợp với các vi trùng gây viêm phổi khác sẽ tạo nên tình trạng viêm phổi nặng với triệu chứng sốt cao, ho nhiều, khó thở.
      3, Viêm phổi do Pasteurella( tụ huyết trùng lợn )
      + Vi khuẩn có mặt thường xuyên trong đường hô hấp
      + Thời gian nung bệnh ngắn
      + Sốt rất cao,khó thở,thở bụng,xuất huyết da.Heo chết do suy hô hấp và nhiễm trùng máu
      4, Viêm phổi do APP
      + Có 2 type gây bệnh( type 2 và type 5)
      + Độc tố gây xuất huyết phổi
      + Thể quá cấp: Sốt cao trên 41 độ,sùi bọt máu ở mũi và miệng,rất khó thở.Tím tái cơ thể do suy hệ tuần hoàn,chết sau 24 đến 36h
      + Thể cấp: Heo sốt cao,thở bụng.Chết sau vài ngày.Mổ khám thấy phổi xuất huyết rất nặng
      + Heo sống sót chuyển sang dạng mãn tính rất chậm lớn,phổi dính sườn
      5, Viêm phổi và viêm xoang do Haemophillus
      + Có 2 type gây bệnh(type 4 và type 5)
      + Bệnh xảy ra đột ngột,heo con sốt cao(40 – 41 độ),ho xù lông, khó thở.Chết sau 2 đến 5 ngày
      + Mổ khám thấy viêm phổi,,xoang bao tim,xoang bụng,xoang ngực tích đầy dịch và sợi huyết
      + Heo sống sót thường chuyển sang thể viêm phổi mãn tính, viêm bao tim, viêm dính ruột, chậm lớn.Có thể có triệu chứng thần kinh do viêm màng não
      6, Viêm phổi trong bệnh tai xanh
      + Virut tai xanh nhiễm qua đường hô hấp,vào đại thực bào và nhân lên.Ở phổi, virut phá đại thực bào phổi,phổi mất khả năng diệt khuẩn tạo điều kiện cho các vi khuẩn như Pasteurella, APP, Haemophillus...phát triển mạnh gây viêm phổi cấp
      II, ĐIỀU TRỊ VIÊM PHỔI
      + Do diễn biến bệnh xảy ra nhanh và có thể có nhiều loại vi khuẩn đồng thời tấn công phổi,do đó kháng sinh điều trị cần có phổ kháng khuẩn rộng,có khả năng tập trung mạnh vào phổi và đặc biệt phải có khả năng khuếch tán vào trong khoang ngực và phải dùng kháng sinh ngay khi heo có dấu hiệu sốt cao. Để điều trị hiệu quả cao cần phối hợp thêm các loại thuốc hỗ trợ như trợ hô hấp,thuốc kháng viêm,thuốc hạ sốt và tăng sức đề kháng
      + Phác đồ điều trị viêm phổi

      Thuốc sử dụng
      Công dụng
      Liều dùng
      Thời gian dùng thuốc
      Tylospec hoặc Hanceft
      + Diệt tất cả các vi trùng gây viêm phổi
      + 1ml/10 kg P
      + Tiêm bắp thịt,ngày đầu tiêm 2 lần,các ngày sau tiêm 1 lần
      4 – 5 ngày
      Bromhexine
      + Giãn phế quản,long đờm giúp heo thở dễ dàng
      + 1ml/10 kg P
      + Tiêm bắp thịt,ngày 1 lần
      4 – 5 ngày
      Dexa
      + Kháng viêm,giúp máu lưu thông và đưa kháng sinh đến vùng bị viêm
      + 1ml/10 kg P
      + Tiêm bắp thịt,ngày 1 lần
      3 ngày đầu
      Analgin C
      + Hạ sốt
      + 1ml/10 kg P
      + Tiêm bắp thịt,ngày 1 đến 2 lần
      3 ngày đầu
      Vitamin C,B1..
      Tăng sức đề kháng
      + 1ml/10 kg P
      + 1ml/10 kg P
      4 – 5 ngày

      + Phòng bệnh hô hấp
      -         Giữ ấm cho heo,tuyệt đối không tắm cho heo lúc sáng sớm,khi trời lạnh
      -         Định kỳ trộn kháng sinh vào thức ăn
      -         Tiêm phòng đầy đủ các loại vacxin

      -         Định kỳ sát trùng chuồng trại bằng các thuốc sát trùng như:Povidine, Benkocid, Han – iodine

      HỘI CHỨNG MMA & CÁCH PHÒNG TRỊ HIỆU QUẢ NHẤT

      HỘI CHỨNG MMA & CÁCH PHÒNG TRỊ HIỆU QUẢ NHẤT

      PGS.TS. LÊ VĂN THỌ
      Cố vấn kỹ thuật công ty liên doanh BIO-PHARMACHEMIE

      Viêm vú, viêm tử cung và mất sữa thường được gọi là MMA, là một hội chứng phức tạp ở heo nái, xảy ra sau khi sinh trong thời gian ngắn từ 12 giờ đến 3 ngày. Bệnh gây ra do sự nhiễm trùng của tuyến vú hoặc nhiễm trùng đường sinh dục. Heo nái bị hội chứng MMA làm tăng tỷ lệ chết ở heo con và giảm trọng lượng của heo con cai sữa.

                  -Viêm vú: Do vi khuẩn gây nhiễm trùng bầu vú, thường do vi khuẩn E.coli gây ra. Trong nhiều trường hợp chỉ có một hoặc hai tuyến vú bị ảnh hưởng. Viêm vú còn là hậu quả kế phát của viêm tử cung.
                  -Viêm tử cung: Là do tử cung bị nhiễm trùng trong quá trình sinh đẻ, quá trình viêm xảy ra trong nội mạc tử cung. Biểu hiện đặc trưng là có dịch mủ chảy ra ở âm hộ.

                  -Mất sữa: Là tình trạng giảm lượng sữa tiết ra của heo nái. Thường không được phát hiện cho đến khi heo con có biểu hiện bị đói do heo nái thiếu sữa.

      NGUYÊN NHÂN

                  Đây là một bệnh có nhiều nguyên nhân gây ra.
      - Nguyên nhân do vi khuẩn: Bao gồm E.coli, Klebsiella spp, Enetrobacterspp, Mycoplasmaspp, Streptococcus và Staphylococcus.

      - Nguyên nhân do nội tiết tố ảnh hưởng đến sinh đẻ và tiết sữa

      -Nguyên nhân do dinh dưỡng bao gồm thức ăn chứa ít chất xơ, ít chất béo, thiếu vitamin E và Ca. Do thời gian mang thai cho heo nái ăn nhiều chất carbohydrate, heo nái quá mập. Không cung cấp đủ nước cho heo uống.

      -Nguyên nhân do quản lý: Do heo nái đẻ khó, can thiệp bằng tay không đúng kỹ thuật dễ gây viêm tử cung, Do heo nái ít vận động…

      CƠ CHẾ SINH BỆNH
                  -Do heo nái bị căng thẳng lúc sanh →sự tăng tiết Cortisol →làm suy giảm đáp ứng miễn dịch tự nhiên →vi khuẩn E.coli trong vú phát triển →gây VIÊM VÚ.
                  -Vi khuẩn E.coli phát triển trong vú →gây nhiễm trùng huyết do nội độc tố →giảm tiết Cytokines (IL1,6,TNFα) →làm giảm Ca & K →chức năng của cơ vòng núm vú bị suy giảm (hở núm vú) →là cơ hội thuận lợi cho vi sinh vật xâm nhập vào vú →gây VIÊM VÚ
                  -Do heo nái bị căng thẳng lúc sanh→giảm tiết Oxytocin→giảm tiết Protaglandin F2α + vi khuẩn xâm nhập từ âm đạo vào tử cung (do cổ tử cung mở) →VIÊM TỬ CUNG
                  -Nhiễm trùng huyết do nội độc tố →dẫn đến sự giảm tiết Protaglandin F2α, giảm tiết Oxytocin →giảm tiết Prolactin →gây MẤT SỮA

      DẤU HIỆU LÂM SÀNG
                  +Heo nái: Heo nái bị hội chứng MMA thường có dấu hiệu bị táo bón, sốt trên 39,5°C và giảm ăn 1-2 ngày. Heo nái mất sự ngon miệng, cùng với tâm lý bồn chồn, có khi bị đau không cho heo con bú, heo nái nằm sấp giấu vú xuống nền chuồng. Đôi khi thể hiện từng triệu chứng riêng lẽ, nhưng có khi hiển thị tất cả các dấu hiệu (viêm vú, viêm tử cung, mất sữa).
                  Bầu vú bị viêm cứng, sưng đỏ, đau khi sờ nắn. Sản lượng sữa giảm thấp.
                  Dịch mủ chảy ra từ âm hộ có màu trắng đục, mùi tanh, hôi thối.
                  +Heo con: Tăng trọng hằng ngày giảm và có dấu hiệu bị đói là dấu hiệu dễ thấy nhất. Ngoài ra heo con bị tiêu chảy và có thể hạ thân nhiệt.

      CHẨN ĐOÁN
                  Việc chẩn đoán phải dựa vào triệu chứng lâm sàng, đặc biệt là dấu hiệu giảm tính ngon miệng ở heo nái. Sờ nắn các tuyến vú, nếu có viêm vú thì bầu vú cứng và nóng. Có dịch mủ chảy ra ở âm hộ. Ở heo con tăng trọng kém, có tiêu chảy, giảm thân nhiệt
      Dịch mủ chảy ra ở âm hộ heo nái do
      hội chứng MMA

      ĐIỀU TRỊ

                  Điều trị hội chứng MMA phải bao gồm cả thuốc kháng sinh bằng đường tiêm, thuốc đặt tử cung để điều trị tại chỗ và thuốc kích thích tiết sữa. Việc điều trị được thực hiện ngay sau khi được chẩn đoán là heo nái bị hội chứng MMA hoặc thân nhiệt heo nái tăng lên 39,5°C sau khi đẻ 12-18 giờ.

                  Phác đồ điều trị như sau:

                  1.Tiêm kháng sinh: Các thuốc kháng sinh điều trị hiệu quả với hội chứng MMA nên sử dụng một trong các loại thuốc sau: BIO-CEFQUIN, BIO-CEP 5, BIO-AMOX LA, BIO-TETRA 200 LA, BIO-GENTA AMOX, BIO-D.O.C, BIO-FLORSONE 400 LA…

      Trong đó thuốc BIO-CEFQUIN là kháng sinh thuộc nhóm Cephalosporins thế hệ mới nhất nên chưa bị lờn thuốc, vì thế rất hiệu quả trong việc điều trị heo bị MMA.

       
      BIO-CEFQUIN

                  2. Rửa tử cung heo nái bị viêm bằng thuốc BIO-DINE với liều 3ml thuốc/2 lít nước đun sôi để nguội, sau khi rửa xong, đợi cho nước rửa tử cung chảy ra gần hết rồi mới đặt thuốc BIO-VAGILOX vào tử cung.
       
      BIODINE
       
      BIO-VAGILOX

                  3.Dùng BIO-CALCIUM  20ml pha chung với BIO-CEVIT 10mlđể tiêm vào tĩnh mạch tai cho heo hoặc pha vào chai dịch truyền BIO-GLOCOSE 5% để truyền cho heo nái.
       
      BIO-CALCIUM


                  4.Tiêm BIO-OXYTOCIN với liều thấp: 1ml/nái, (tương đương 10IU/nái) có thể hổ trợ tốt trong điều trị.
      Cấp thêm thuốc BIO-METASAL để heo mau hồi phục sức khỏe sau khi sinh. Heo nái phải được uống nước  thường xuyên bằng cách đánh cho heo nái đứng dậy để đi đến máng nước.
                  Trong thời gian heo nái bị bệnh, chắc chắn heo con sẽ bị ảnh hưởng do thiếu sữa, vì vậy phải dùng sản phẩm sữa thay thế sữa mẹ BIO- MILK để cung cấp đủ năng lượng và tránh mất nước cho heo con. Đồng thời có thể chuyển heo con sang nuôi ghép ở các bầy khác nếu con nái có sản lượng sữa tốt và tương đồng về thời gian.

      KIỂM SOÁT VÀ PHÒNG NGỪA 

      Ngăn chặn hiệu quả nhất của hội chứng MMA là điều kiện vệ sinh tốt cho cả bản thân heo nái và chuồng nái đẻ để phòng ngừa sự lây nhiễm vi sinh vật vào bầu vú và tử cung. Điều này đòi hỏi phải dùng thuốc sát trùng chuồng heo (sử dụng các thuốc sát trùng như BIODINE, BIOXIDE, BIOSEPT).
      •   Tắm heo mẹ thật kỷ trước khi đưa vào chuồng đẻ. Chuồng heo nái đẻ phải được giữ SẠCH và KHÔ trong suốt thời gian heo con theo mẹ.
      •   Heo nái vừa sanh xong, tiêm 1 liều BIO-CEFQUIN để phòng nhiễm khuẩn.
      •   Đặt viên thuốc ngừa BIO-VAGILOX ngay sau khi nái sinh, liên tiếp 2 ngày.
      •   Phải cho heo nái vận động thường xuyên cũng tránh được hội chứng MMA.
      •   Nền chuồng không trơn trợt, nền chuồng trơn là nguyên nhân làm cho heo nái ngại đi lại, giảm hoạt động.
      •   Trong thời gian nái mang thai phải kiểm soát chế độ ăn để tránh quá mập.
      •   Phải bảm bảo đủ nước sạch mọi lúc cho heo nái. Một heo nái nuôi con cần 15 đến 30 lít nước mỗi ngày.
      •   Chuồng heo nái phải giữ yên lặng, thoáng mát để giảm sự căng thẳng cho heo nái trong quá trình sinh.
      HƯỚNG DẪN CÁCH CHO NÁI ĂN HỢP LÝ

                  -Thời gian mang thai đến lúc đưa vào chuồng nái đẻ : cho ăn 2-3kg/ngày tùy thuộc vào độ lớn của heo nái.
                  -Hai ngày trước khi đẻ giảm thức ăn xuống còn 1-2kg/ngày.
                  -Sau khi đẻ gia tăng mỗi ngày 0,5kg/ngày cho đến khi heo nái ăn được khoảng 5kg/ngày.

      TÁC HẠI CỦA THỊT HEO CÓ CHỨA THUỐC AN THẦN

      TÁC HẠI CỦA THỊT HEO CÓ CHỨA THUỐC AN THẦN

      Cách đây vài ngày lực lượng chức năng đã phát hiện một lò giết mổ heo ở Huyện Bình Chánh TP.HCM có tiêm thuốc an thần vào cho heo trước khi giết mổ khoảng vài giờ để làm cho thịt heo sau khi mổ dẻo hơn, tươi hơn, ướt hơn, để lâu miếng thịt vẫn tươi ngon. Như vậy thịt sẽ bán được giá hơn… từ đó đã làm cho người tiêu dùng hết sức lo lắng, vây điều này có tác hại như thế nào đối với người tiêu dùng?

      PGS.TS. LÊ VĂN THỌ - Cố vấn kỹ thuật Công ty liên doanh BIO-PHARMACHEMIE.

                  Chúng ta biết rằng thuốc PROZIL mà chủ lò mổ đã sử dụng để tiêm cho heo trước khi giết mổ là tên thương mại của một loại thuốc thú y có chứa hai thành phần chính là Acepromazine và Atropin.
      Acepromazine là chấtcó tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương giúp an thần, chống căng thẳng, giúp thú bình tĩnh và giảm lo lằng, chống buồn nôn, thường được sử dụng kèm theo với các thuốc gây mê toàn thân được dùng trong các ca phẫu thuật.

                  Thuốc Atropin là một loại thuốc ức chế phó giao cảm, giúp giảm tiết dịch, giảm kích thích nhu động ruột, chống co thắt cơ trơn. Thuốc này được dùng trước khi gây mê phẫu thuật để tránh bài tiết quá nhiều nước bọt và dịch tiết ở đường hô hấp do tác dụng phụ do thuốc mê gây ra.

                  Tại sao tiêm thuốc PROZIL cho heo trước khi giết mổ sẽ cho thịt dẻo hơn, tươi lâu?

                  Đối với heo, nhất là những giống heo có nhiều nạc (heo siêu nạc) rất dễ bị stress trong lúc vận chuyển hoặc trước lúc giết mổ. Những stress này sẽ làm cho thịt heo lúc giết mổ bị chảy dịch nhiều, miếng thịt nhạt màu, có màu tái, thịt mềm nhũn, khô, không hấp dẫn người tiêu dùng, thường được gọi là thịt bị P.S.E (Pale, soft, exudative meat). Nếu tiêm thuốc có chứa Acepromazine trước lúc vận chuyển hoặc giết mổ sẽ ngăn ngừa các stress nên những hiện tượng như rỉ dịch, nhạt màu, mềm nhũn của miếng thịt không xảy ra. Vì thế miếng thịt có màu đỏ tươi lâu, đưa tay vào miếng thịt thấy có độ dẻo và dính chặt vào tay, thấy miếng thịt ngon hơn và luôn có cảm giác là thịt tươi, như vậy sẽ hấp dẫn người tiêu dùng hơn và sẽ bán được giá cao hơn.

                  Mặc dù thuốc Acepromazine và Atropin là thuốc được sử dụng khá phổ biến trong thú y, không phải là chất cấm. Nhưng dù không phải là chất cấm nhưng vẫn không được phép sử dụng bừa bãi mà phải sử dụng đúng chỉ định và phải tuân thủ theo quy định của việc dùng thuốc thú y để không được phép còn tồn dư thuốc trong sản phẩm trước khi đem bán cho người tiêu dùng.

      Đối với thuốc Acepromazine và Atropin thì thời gian ngừng thuốc trước khi giết mổ là 5-7 ngày. Đây là thời gian tối thiểu để thuốc đàothải hết khỏi cơ thể và không ảnh hưởng có hại đến sức khỏe của người tiêu dùng.

      Thuốc an thần tồn dư sẻ ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng như thế nào?

                  Nếu người tiêu dùng vô tình mua phải thịt heo có tiêm thuốc an thần vài giờ trước khi giết mổ, đây là những thịt heo có tồn dư thuốc với nồng độ cao vì chưa được bài thải ra khỏi cơ thể, nếu dùng lặp đi lặp lại có thể gây ra một số triệu chứng như giãn nở các mạch máu đưa đến hạ huyết áp, hô hấp chậm, những triệu chứng này khá nghiêm trọng nhất là đối với những người già và trẻ em.

      Làm thế nào để nhận biết thịt heo có tiêm thuốc an thần?

                  Thật tình đối với người tiêu dùng bằng mắt thường thì khó mà nhận biết được những miếng thịt heo nào là có tồn dư thuốc an thần và kể cả một số thuốc khác. Tuy nhiên đối với những miếng thịt heo có màu sắc thật bắt mắt như đỏ tươi hơn, sờ tay vào thấy rất dính, thịt dẻo hơn, phần thịt ra sát tới da và rất ít mỡ thì đó là những dấu hiệu cho người tiêu dùng nghi ngờ là heo có sử dụng thuốc không đúng quy định.

                  Mặt khác người tiêu dùng cũng nên thay đổi các đòi hỏi đối với một số sản phẩm chăn nuôi khác nữa như thịt gà phải có da vàng, chân vàng mới mua, làm cho người chăn nuôi hoặc người bán đáp ứng bằng cách bôi phẩm màu để có màu sắc phù hợp theo yêu cầu. Vô tình chúng ta đã mua những sản phẩm không đạt vệ sinh an toàn thực phẩm.

      Để giúp ngăn ngừa những tác hại vừa nêu trên, thiết nghĩ các ngành chức năng nên tổ chức những buổi tập huấn cho  người chăn nuôi, các thú y viên, chủ cơ sở các lò giết mổ để hướng dẫn những tác hại của việc tồn dư thuốc trong sản phẩm chăn nuôi và động viên mọi người sử dụng thuốc đúng quy định. Mặt khác, cơ quan chức năng cũng phải thường xuyên lấy mẫu đột xuất để phát hiện tồn dư thuốc trong sản phẩm nhằm có biện pháp ngăn chặn kịp thời các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn không được đưa ra thi trường./.

      Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

      Tai xanh

       Tai xanh thì hay dùng thử Tulathromycin + hạ sốt + Mg + C. đối với heo con thì Ceftiofur +Mg, còn có điều trị đc ko thì còn tùy vào chất lượng KS, tôi đề cử pfizer, tôi viết bài này cho nhửng ng bị PRRS tham khảo chứ ko đấu đá j ai cả. BB cả nhà:D. trong nhửng trường hợp heo bị co giật do nhiểm Streptococus thì Mg là fải có, nếu nặng quá thì hổ trợ thếm Biotin(Vitamin H), và thuốc an thần (acepromazin), pha vào nước uống Bromhexin, nếu có dịch từ mủi chảy ra nhiều thì bắt buộc fãi có Chlorphenỉamin Melate.nếu các nhà chăn nuôi nào có bị thì cứ tham khảo. tỉ lệ khỏi bệnh sẻ khiến bạn ngạc nhiên đó! lưu ý: khoãng 10 ngày heo mới giãm triệu chứng bệnh nên nếu các bạn làm các bước như trên rồi thì ko nên bán tháo vì khi tiêm vào nó còn mệt hơn, nhưng ko sao.vì virus PRRS là virus ISVS nên khi điều trị triệu chứng rồi thì có thể khống chế đc. các bạn cứ Seach IMMUNOSUPRESSIVE VIRUSES thì sẻ hiểu đc nguyên lý tại sao tôi lại nói PRRS trị đc, phần việc của chúng ta là trị triệu chứng còn việc loại virus ra khỏi cơ thể là do bản thân của Heo nó làm, mình ko làm đc vệc đó! nếu đc các bạn cứ làm thử rồi chia sẻ lại KN. bài viết này tối viết dựa trên Kinh nghiệm của bản thân và kiến thức ở trường chứ ko hề nói suông, ngồi gỏ bàn phím mà chém gió đâu.nếu đc các bạn có thể vào email truong_hong56@yahoo.com mình sẻ chỉ chi tiết hơn. bài này còn 1 số thiếu sót nho nhỏ. thanks Diển Đàn nhiều!
      PRRS bây h ko còn làm khó ng chăn nuôi nửa, mà thằng làm anh em ta khốn đốn hiện tại là Thằng CIRCO VIRUS.các bạn cứ tìm hiểu Circo, đại học nông lâm TPHCM đã thử mẩu và 80% trại đả nhiểm Circo với mức độ nặng nhẹ khác nhau. ko sớm thì muộn nó củng thành dịch như PRRS, mình đả tiêm vaccỉne Circo cho Heo ở trại nhà rồi và kết quả củng tốt, nhưng trở ngại ở đây chính là giá thành khá đắt 52000 trên 1 Heo con (có laoị khác rẻ hơn nhưng KQuả ko đc tốt như ý muốn) nếu có bị Circo thì cứ vào Yahoo mình sẻ chỉ tận tình.
      nếu đc Mod đưa nó lên trang 1 diển đàn cho bà con xem mà biết để có ý thức phòng ngừa bệnh mới này, khi khác sẻ viết thêm về Circo.

      Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

      phân tích ảnh hưởng của các loại ĐỒNG (TBCC và Đồng Sulfa) trên heo con cai sữa.

      Thí nghiệm

      Hiện nay, đa số các nhà chăn nuôi heo con cai sữa thường sử dụng Đồng Sunfa (250ppm) để trộn trong thức ăn, thực tiễn cho ta thấy sử dụng Đồng Sulfa liều cao có vai trò thúc đẩy tăng trưởng của heo con, do Đồng Sunfa hoạt tính cao, nên cũng dễ phá hoại các loại Vitamin, làm cho thức ăn bị oxy hóa, ảnh hưởng tới sự thèm ăn, lông dài, da trắng.

      Nhưng đối với sản phẩm TBCC 58% (Đồng Clo), có tính lưu động tốt và ổn định cao, ít phá hoại Vitamin. Phần lớn các Cty TAGS ở nước ngoài sử dụng sản phẩm TBCC cho thức ăn heo con thay cho các loại Đồng, đồng thời có báo cáo cho rằng sử dụng 150ppm Đồng TBCC có thể đạt tới sử hiểu quả của Đồng Sunfa khi sử dụng 250ppm.

      Thí nghiệm được tiến hành để so sánh liều sử dụng của 2 loại Đồng (TBCC và Đồng Clo) có ảnh hưởng tới sự phát triển của heo con, và để xác định mức tối ưu nhất bổ sung liều lượng TBCC.

      Thí nghiệm được thực hiện tại Trại heo FI TAI, Liao Cheng – tỉnh Sơn Đông, từ ngày 26/09/2003 – 01/11/2003, heo cai sữa 35 ngày tuổi, cùng loại giống, sức khỏe tốt, cân nặng đồng đều (bình quân 9.4kg), chia làm 5 tổ, mỗi tổ chia làm 3 lô, mỗi lô là 16 con, tồng là 240 con, tự do ăn uống, thời gian thí nghiệm là 36 ngày

      Nguyên liệu sử dụng là bắp và đậu nành, chế độ ăn uống mỗi tổ như nhau, mức độ dinh dưỡng khác nhau: Năng lượng tiêu hóa 3400Kca/kg: tiêu hóa Lysine: 1.05%.

      Kết quả tăng trọng hàng ngày (ADG), lượng ăn vào, FCR như hình đính kèm.

      Trong thí nghiệm này các lô heo trên ngày tăng trọng, lượng ăn, và FCR không có sự khác biệt nhiều, chứng tỏ rằng sản phẩm TBCC có thể thay thế Đồng Sunfa trong khẩu phần thức ăn của heo con. Từ hiệu suất tính năng, cho ta thấy, lô T4 và T5 sử dụng sản phẩm TBCC, lần lượt 175ppm và 150ppm, hoàn toàn có thể thay thế 250ppm Đồng Sunfa.

      Hình ảnh: Thí nghiệm phân tích ảnh hưởng của các loại ĐỒNG (TBCC và Đồng Sulfa) trên heo con cai sữa.

Hiện nay, đa số các nhà chăn nuôi heo con cai sữa thường sử dụng Đồng Sunfa (250ppm) để trộn trong thức ăn, thực tiễn cho ta thấy sử dụng Đồng Sulfa liều cao có vai trò thúc đẩy tăng trưởng của heo con, do Đồng Sunfa hoạt tính cao, nên cũng dễ phá hoại các loại Vitamin, làm cho thức ăn bị oxy hóa, ảnh hưởng tới sự thèm ăn, lông dài, da trắng.

Nhưng đối với sản phẩm TBCC 58% (Đồng Clo), có tính lưu động tốt và ổn định cao, ít phá hoại Vitamin. Phần lớn các Cty TAGS ở nước ngoài sử dụng sản phẩm TBCC cho thức ăn heo con thay cho các loại Đồng, đồng thời có báo cáo cho rằng sử dụng 150ppm Đồng TBCC có thể đạt tới sử hiểu quả của Đồng Sunfa khi sử dụng 250ppm.

Thí nghiệm được tiến hành để so sánh liều sử dụng của 2 loại Đồng (TBCC và Đồng Clo) có ảnh hưởng tới sự phát triển của heo con, và để xác định mức tối ưu nhất bổ sung liều lượng TBCC.

Thí nghiệm được thực hiện tại Trại heo FI TAI, Liao Cheng – tỉnh Sơn Đông, từ ngày 26/09/2003 – 01/11/2003, heo cai sữa 35 ngày tuổi, cùng loại giống, sức khỏe tốt, cân nặng đồng đều (bình quân 9.4kg), chia làm 5 tổ, mỗi tổ chia làm 3 lô, mỗi lô là 16 con, tồng là 240 con, tự do ăn uống, thời gian thí nghiệm là 36 ngày

Nguyên liệu sử dụng là bắp và đậu nành, chế độ ăn uống mỗi tổ như nhau, mức độ dinh dưỡng khác nhau: Năng lượng tiêu hóa 3400Kca/kg: tiêu hóa Lysine: 1.05%.

Kết quả tăng trọng hàng ngày (ADG), lượng ăn vào, FCR như hình đính kèm.

Trong thí nghiệm này các lô heo trên ngày tăng trọng, lượng ăn, và FCR không có sự khác biệt nhiều, chứng tỏ rằng sản phẩm TBCC có thể thay thế Đồng Sunfa trong khẩu phần thức ăn của heo con. Từ hiệu suất tính năng, cho ta thấy, lô T4 và T5 sử dụng sản phẩm TBCC, lần lượt 175ppm và 150ppm, hoàn toàn có thể thay thế 250ppm Đồng Sunfa.

      Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014

      BỆNH VIÊM MÓNG TRÊN BÒ SỮA

      BỆNH VIÊM MÓNG TRÊN BÒ SỮA - PGs. Ts. LÊ ĐĂNG ĐẢNH, KHOA CHĂN NUÔI THÚ Y, TRƯỜNG ĐH NÔNG LÂM TP. HCM
      Các bệnh viêm móng, viêm kẽ móng, viêm vành móng và viêm khớp đã gây thiệt hại kinh tế rất lớn trên đàn bò sữa, lớn hơn so với bệnh viêm vú; nhất là trong điều kiện nhiệt đới nóng ẩm và nuôi nhốt như đại đa số các hộ chăn nuôi ở miền Đông Nam bộ. Thống kê của một số bang ở Mỹ cho thấy bệnh viêm chân móng gây thiệt hại kinh tế 20% cho đàn bò sữa so với bệnh viêm vú chỉ gây thiệt hại 16,5%.
      1. Nguyên nhân gây viêm móng trên bò sữa
      Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ và ẩm độ cao. Phần lớn bò sữa được nuôi nhốt thường xuyên trong chuồng nền bằng ximent hoặc bê tông nhám nên móng chân bò sữa bị bào mòn liên tục. Hơn nữa, đa số chuồng trại của hộ chăn nuôi nhỏ có nền chuồng không cao hơn so với nền đất chung quanh, độ dốc kém và thường xuyên xịt nước để dội phân, tắm rửa bò. Do đó nền chuồng luôn bị ẩm ướt, có nhiều chỗ bị đọng nước. Đàn bò luôn đứng trên nền chuồng ẩm ướt nên móng chân của chúng bị mềm, chỗ nối giữa lớp da với thành móng dễ bị nứt, khe giữa hai móng bị viêm, phân nhét vào kẽ nứt này hoặc kẽ giữa hai móng chân. Đây là cơ hội tốt cho vi khuẩn trong phân bám trên nền chuồng, nhất là các vi khuẩn yếm khí gây viêm móng và hình thành ổ viêm có mủ. Vết nứt ngày càng sâu, vi khuẩn tiếp tục xâm nhập và phát triển nên bệnh ngày càng trầm trọng. Khi vi khuẩn xâm nhập lên phía trên gây ra viêm khớp cổ chân, khớp gối rồi tiếp tục gậy viêm đa khớp rất khó điều trị. Ngoài ra, khi bò nằm do đau chân nhưng vẫn được vắt sữa, sữa rơi vãi trên nền chuồng tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại phát triển nhanh. Thức ăn tinh rơi vải trên nền chuồng, vi khuẩn lên men sản sinh acid cũng gây hại thêm cho móng chân bò.
      Bình thường pH dạ cỏ khoảng 6,0 - 6,2. Nếu khẩu phần ăn có tỉ lệ thức ăn tinh cao nhưng ít cỏ, rơm làm cho pH dạ cỏ xuống dưới 6,0. pH này sẽ giết chết các loài vi khuẩn tiêu hóa chất xơ, sự tiêu hóa chất xơ suy giảm, tình trạng toan huyết (acidosis) xẩy ra. Hậu quả là nước từ các tế bào ruột đi vào lòng ruột tăng, thú bị tiêu chảy. Nếu pH dạ cỏ tiếp tục hạ thấp hơn 5,5, nhiều loài vi khuẩn bình thường trong dạ cỏ cũng bắt đầu chết. Hàm lượng acid trong ống tiêu hóa thấp cũng gây loét dạ cỏ, vi khuẩn trong dạ cỏ vào máu gây áp xe gan. Các nội độc tố do vi khuẩn sản sinh trong môi trường axit của dạ cỏ quá thấp ảnh hưởng đến hệ thống mạch máu nhỏ ở móng chân cũng góp phần gây viêm móng. Ngoài ra, móng chân bò luôn chịu áp lực rất lớn khối lượng cơ thể khi đi đứng nên gây vỡ mạch máu nhỏ trong móng chân, vành móng, tạo điều kiện cho vi khuẩn đi lên phía trên gây viêm khớp.
      2. Triệu chứng
       Khi bị viêm móng, bò đi lại khó khăn, stress do đau, giảm ăn uống nên sản lượng sữa cũng như khả năng sinh sản giảm nhanh. Do đó phòng bệnh là cách tốt nhất.
      Các triệu chứng dễ nhận biết khi bò bị viêm móng là: (1) hai chân trước xoạc ra hai bên khi nhìn từ phía trước (hai móng chân xoạc rộng ra hai bên hơn so với bã vai); (2) bò có dáng đi khập khểnh, các chân bị đau thẳng đơ không gấp lại khi bước đi, sống lưng cong lên. Do chân bị đau nên bò bệnh ít đi lại, thích nằm, ít ăn làm giảm sản lượng sữa cũng như khả năng sinh sản; (3) móng chân dài ra và bị vênh giống như càn cua; (4) xương ngón chân thứ 3 của chân trước bị biến dạng, không có gờ móng; (5) đế móng chân bị lõm đều, quan sát rõ ở giữa đế móng, thành móng bị nhô ra.
                  Chân sau bị đau nên chân hơi co về phía trước    Bò bị viêm móng nặng và khuỷu chân sưng to
      Viêm móng chân
      Hình trên cho thấy móng chân bị xuất huyết và vết nứt ăn sâu lên phía trên, móng bị lõm sâu vào chính giữa. Do bị xuất huyết và hoại tử nên chỗ viêm móng có màu đen.
                         Viêm da giữa 2 móng (viêm kẽ móng)                     Chảy máu gan bàn chân
      Dưới móng bị rỗ và lõm sâu
      3. Biện pháp phòng ngừa
      3.1. Vệ sinh và giữ khô nền chuồng nuôi
      - Nâng cao nền chuồng cao hơn nền đất chung quanh ít nhất 10 - 30 cm.
      - Thiết kế độ dốc nền chuồng khoảng 3 đến 5% hướng ra hai bên nền đất chung quanh, đắp ximent những chỗ nền bị lõm, đọng nước, nhất là chỗ bò đứng.
      - Có một khoảng nền đất cao ở gần chuồng, không bị đọng nước để bò đi lại vài giờ trong ngày sau khi vắt sữa. Bò được đi lại nhiều dưới ánh sáng mặt trời giúp cơ thể hấp thu canxi hiệu quả, làm cho móng chân và cẳng chân được khỏe mạnh, vững chắc hơn.
      - Có mảng cao su lót ngay chỗ bò nằm, hoặc xây chuồng theo kiểu đi lại tự do, có chỗ nằm riêng, chỗ ăn và chỗ vắt sữa riêng biệt.
      Bò có chỗ nằm riêng biệt
      - Vệ sinh chuồng trại bằng các chất sát trùng hoặc bằng vôi bột, định kỳ 7 - 10 ngày một lần. Các khảo sát gần đây cho thấy sát trùng định kỳ đã giúp giảm tỉ lệ bệnh viêm móng và viêm vú đáng kể, trên 65%.
      - Các trang trại lớn cần xây thêm hố ngâm chân có chứa CuSO4 gần chỗ vắt sữa. CuSOgiúp sát trùng chân móng và làm cho móng bền chắc hơn.   - Trang bị thêm quạt công nghiệp để làm khô nhanh nền chuồng, đồng thời làm mát bầu tiểu khí hậu giúp bò ăn được nhiều hơn. Nền chuồng khô sẽ ngăn cản sự phát triển của vi sinh vật. Nên hốt phân khô trước, rửa nước sau để làm giảm ẩm độ trong chuồng.
      3.2. Cải thiện khẩu phần ăn và phương thức nuôi dưỡng
      - Cho ăn tăng thêm lượng cỏ tươi loại tốt để giảm lượng thức ăn tinh, do đó giảm chứng toan huyết, giúp các mạch máu nhỏ ở móng chân không còn bị vỡ làm giảm sự xâm nhập và phát triển của vi khuẩn có hại.
      - Cho bò ăn rơm cỏ (thức ăn thô) trước khi cho thức ăn tinh cũng giảm chứng toan huyết hoặc tốt nhất là trộn chung thức ăn tinh và thô. Khẩu phần hỗn hợp tổng số (TMR: Total Mixed Ration) được hầu hết các nước chăn nuôi bò sữa cao sản áp dụng. Khẩu phần nầy giúp bò sữa tiêu hoá và hấp thu dưỡng chất tốt đáp ứng nhu cầu sản xuất nên làm tăng sản lượng sữa và khả năng sinh sản.
      - Ngoài ra, có thể làm tăng độ bền chắc của móng chân và lớp da chung quanh móng bằng cách bổ sung vào thức ăn các loại vitamin như biotin, B3, A, C và kẽm. Biotin (vitamin H) giúp tổng hợp chất keratin, là chất làm cho nền móng chân được bền và dai hơn, ngăn ngừa các tổn thương ở móng chân. Vitamin B3 (niacin hay nicotinamide) giúp duy trì các chức năng bình thường của da, ngăn ngừa da bị khô, giúp da bám chắc vào móng, ngăn chặn sự xâm nhập các vi khuẩn có hại. Vitamin A duy trì tốt hệ thống xương, giúp lớp biểu bì da phát triển tốt và bám chặt vào móng chân, ngăn chận sự xâm nhập vi khuẩn có hại. Vitamin C tăng sức đề kháng bệnh, giúp da chắc và khỏe. Bổ sung Zn (kẽm) vì thiếu kẽm gây sừng hóa da, lông (paraketosis), da bị dầy lên và nứt nẻ, da không bám chắc vào vành móng. Các vết nứt nầy là nơi vi khuẩn xâm nhập vào gây ra viêm mủ. Có thể kết hợp bổ sung thêm Mn (mangan) nhằm giảm sự yếu chân. Ngoài ra khẩu phần bò sữa phải đầy đủ canxi để bộ xương vững chắc.
      4.  Điều trị
      Móng chân bị viêm (người chăn nuôi thường gọi là hà ăn chân) thì phần móng thường bị khuyết (lõm), có khi xuất huyết hoặc mưng mủ nên có màu nâu, đen; bò đi lại khập khểnh, đứng lên nằm xuống khó khăn, sống lưng bị võng xuống khi viêm móng nặng ở 2 chân sau. Trước tiên bà con nên mời thú y đến gọt móng bằng các dụng cụ chuyên dùng. Gọt sạch chỗ bị viêm, cấp kháng sinh hoặc sulfamid vào và sau đó cho bò mang guốc để tránh bị phân nhét vào. Nếu không có guốc, nhốt bò bệnh ở một chỗ riêng, lót rơm khô và thay rơm thường xuyên, tránh nền chuồng ẩm ướt. Nếu bị nặng, kết hợp tiêm thêm kháng sinh phổ khuẩn rộng ít nhất 5 - 7 ngày.
      Khi vi khuẩn xâm nhập lên phía trên gây viêm khớp, khớp bị sưng to hơn bình thường thì phải dùng một hoặc kết hợp 2 loại kháng sinh, hoặc kết hợp sulfamid phổ khuẩn rộng với thuốc giảm đau và giảm viêm. Có thể kết hợp điều trị bằng kháng sinh với ngâm móng chân trong CuSO4 5% hằng ngày.
      Tuy nhiên khi điều trị bằng kháng sinh thì vắt bỏ sữa vì sữa không được thu mua. Cho nên gần đây người ta thay thế liệu pháp kháng sinh bằng cách trộn chung chất chiết xuất từ cây Lô hội với cồn, chelate khoáng (Cu, Zn, Mn) và một số chất bảo vệ da với chất kết dính tạo thành dạng gel. Khi gọt móng xong, dùng cọ phết gel lên móng, sâu vào kẽ giữa 2 móng. Lớp gel nầy dính chặt vào móng, 2 - 4 ngày sau mới phết lại. Nhờ thảo dược và khoáng chất dưới dạng hữu cơ và cồn nên thuốc có thể thấm sâu vào lớp da chung quanh móng chống lại sự nhiễm khuẩn một cách hiệu quả. Nếu nền chuồng bị ẩm ướt thì sau khi phết phải để bò đứng chỗ khô ít nhất 30 phút và phết lại mỗi 2 ngày. Có thể kết hợp với băng keo chuyên dụng quấn chặt chung quanh và phần dưới móng trong 1 - 2 lần phết đầu tiên. Với cách điều trị nầy đơn giản hơn không cần mang guốc và vẫn bán được sữa trong thời gian điều trị.
      Gọt sạch vết thương
      Đeo guốc
                                  Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả.

      Bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ UV-Việt Nam.